Tài liệu câu đố

Câu đố là một thể loại văn học dân gian phản ánh thế giới khách quan

bằng phương pháp riêng, không giống với phương pháp phản ánh của bất kỳ thể

loại văn học dân gian nào khác. Đó là một loại phương tiện đặc biệt để nhận

thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật, hình tượng trong thế giới khách quan,

đồng thời để mua vui giải trí của nhân dân.

Miêu tả, tường thuật đặc điểm của từng loại sự vật, hiện tượng theo phương

pháp ẩn dụ riêng (ẩn dụ không có giới hạn) làm cho người nghe bị đánh lừa và

đoán lệch để sau đó nhận được sự giải đáp bất ngờ nhưng chí lý và thú vị.

Ẩn dụ không có giới hạn: Ẩn dụ ca dao, tục ngữ và trong văn học nói

chung bao giờ cũng nhằm nói về con người và xã hội loài người một cách kín

đáo nghệ thuật. Còn trong câu đố cái được dấu kín (ẩn đi) không nhất thiết là

người mà có thể là bất kỳ sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

pdf38 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài liệu câu đố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở Bác Hồ vào giữa Miền Nam. Lái ô tôt thích thật, nhưng lái ô tô để chở Bác Hồ vào Nam mới thật sướng nhất trần đời mà chưa hẳn nhiều người lái xe đã nghĩ đến Cái mơ ước chân thành, rất đáng yêu. Lại có em “Ước mơ thành họa sĩ” như em Hoàng Thanh Hà, 11 tuổi, để được vẽ tất cả những gì mà em yêu quý nhất: Em muốn làm họa Để vẽ quê hương Em vẽ nhiều mái trường Rõ ràng, trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước vo cùng gian khổ, chúng ta đã có nhiều các em thiếu nhi làm thơ. Mỗi em đều có những nét riêng đóng góp cho nền văn học trẻ em nước nhà thêm phong phú và đa dạng như này nay. 3. Những nét độc đáo về nghệ thuật Nói đến văn chương nói chung và thơ nói riêng là nói tới một loại hình nghệ thuật đặc biệt - nghệ thuật ngôn từ. Các em thiếu nhi làm thơ chưa phải đã hoàn toàn có ý thức dụng công nghệ thuật, song những sản phẩm thơ của các em đôi khi lại đạt đến trình độ nghệ thuật được mọi người thừa nhận. Dưới đây là một vài dẫn dụ tiêu biểu. Ta đã biết thơ Trần Đăng Khoa có nhiều bài hay, mỗi bài mang một dáng vẻ riêng. Năm 1967, lúc khoa 9 tuổi đã viết bài “Mưa” với những dòng như sau: Ông trời Mặc áo giáp đen Ra trận Muôn nghìn cây mía Múa gươm Kiến Hành quân Đầy đường Hàng bưởi Đu đưa Bế lũ con Đầu tròn Trọc lốc và: cây lá hả hê Bố em đi cày về Đội sấm, đội chớp Đội cả trời mưa. Nhà thơ Huy Cận đã khen bài thơ này như sau: “Trong bài “Mưa” Trần Đăng Khoa thật là múa bút mà viết Một hoạt động của trời đất, nhuốn chất tráng ca, do một chú bé chín tuổi bố cục và đạo diễn”. Quả như thế thật. Những dòng dòng thơ trên đây chỉ là những trích đoạn từ hoạt cảnh ấy. Toàn bài gồm 63 dòng thơ, Trần Đăng Khoa đã dựng lên một bức tranh toàn cảnh về một trận mưa. Đây là một trận mưa rất to; trước lúc mưa tất cả các loại côn trùng, thảo mộc đều tíu tít theo những nét rất đặc trưng cửa giống loài: mối trẻ bay cao, mối già bay thấp, gà con rối rít tìm nơi ẩn nấp; muôn nghìn cây mía múa gươm, rồi sấm chớp rạch ngang trời và trong mưa thì ồn ã của đủ loại âm thanh hợp lại tạo thành một bản hòa tấu: “Mưa”. Nét nghệ thuật đặc sắc nổi bật của bài thơ là việc sử dụng rất thành công biện pháp nhân hóa. Có thể nói toàn bài thơ này được phủ kín bằng biện pháp nhân hóa: ông trời mặc áo giáp đen ra trận; mía - múa gươm; kiến - hành quân; cỏ gà - rung tai nghe; bụi tre - tần ngần gỡ tóc; hàng bưởi - bế lũ con; sấm - ghé xuống sân khanh khách cường; cây dừa - sải tay tay bơi; ngọn mùng tơi - nhảy múa Tất cả cỏ cây, đến cả sấm chớp đều được gán cho những hoạt động của con người, làm cho bài thơ sôi động, nhộn nhịp bội phần Song có lẽ cái nhân hóa ở đây là để nhằm tôn lên vẻ đẹp hùng tráng kì vĩ của con người thực sự trong bốn dòng thơ cuối bài: Bố em đi cày về - Đội sấm - Đội chớp - Đội cả trời mưa. Người cha của Khoa - một nông dân bình dị, nhưng trong trận mưa này trở nên kì vĩ biết nhường nào. Hình ảnh người cha sừng sững như choán lấy cả bài thơ mà được nhân lên gấp bội Bài “Mưa” của Trần Đăng Khoa được viết theo lối thơ tự do. Dưới đây là bài “Từ sáng hôm nay” của Chu Hồng Quý, viết lúc 10 tuổi theo thể thơ lục bát: Kể từ buổi sáng hôm nay Chúng em đã có máy bay lên trời. Đặt tên là “Mích 20” Chúng em tự chế bằng mười ngón tay Chế bằng mảnh báo hàng ngày, Không cần chong chóng vẫn bay diệu kì. Mời cô, bác, mẹ lên đi Thử xem con lái có nghề hay không Mẹ bảo tốn giấy mất công Học hành thì ít, lông bông thì nhiều Mẹ cười là mẹ mắng yêu Sợ em nhóm bếp cần nhiều giấy nhen Để em cất cánh bay lên Lấy lửa Sao Hỏa về em nhóm lò Cơm ta sẽ chín không lo Tàu em lại chở câu hò thăm sao. Bài thơ cứ đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ở đoạn đầu, ai cũng biết em chế máy bay bằng giấy báo. Máy bay “bằng giấy báo” ấy lại “không cần chong chóng vẫn bay diệu kì”. Bất ngờ hơn là em lại “Mời cô, bác, mẹ lên đi” để xem em lái “có nghề hay không”. Bất ngờ hơn cả là: Để em cất cánh bay lên, “Lấy lửa Sao hỏa về em nhóm lò” và “Tàu con lại chở câu hò thăm sao”. Cái tứ của bài thơ chuyển biến thật kì diệu, mỗi bước chuyển lại này thêm ý mới, rất tươi vui, hóm hỉnh, pha chút tinh nghịch, và cũng thật là táo bạo, táo bạo như mơ ước của tuổi thơ Bài thơ còn thành công ở việc sử dụng một thể thơ thuần thúy dân tộc để diễn đạt những ý tưởng mới mẻ và trong sáng. Từ việc chọn lời đến gieo vần đều chuẩn xác, nhuần nhị, đạt tới những tiêu chí kĩ thuật bắt buộc của thể thơ mà vẫn uốn lượn thật phóng túng. Chúng ta vẫn thường nói: thiếu nhi Việt Nam tuổi nhỏ mà chí lớn. Điều này đã đúng trong cuộc sống và cũng đúng trong hoạt động nghệ thuật của các em. Ngôn từ trong tay các em được chọn lựa, biến hóa tới mức tinh xảo nhằm thể hiện cho được những tình ý với thiên nhiên, tạo vật, với con người và với cuộc đời trong hầu hết các thể thơ. Trong thơ của các em, các biện pháp nhân hóa, so sánh thường hay được sử dụng. Nhân hóa làm cho mọi sự vật, hiện tượng xung quanh các em trở nên gần gủi, quen thuộc, song cũng là để cho dễ hình dung, tưởng tượng. Còn so sánh lại giúp cho các em thể hiện những nhận thức của mình về sự vật, hiện tượng theo những chiều nông sâu, theo những độ chuẩn xác khác nhau III. MỘT VÀI KẾT LUẬN 1. Hiện tượng trẻ em làm thơ và có nhiều “cây bút” xuất sắc tưởng như có gì đó bất thường, song cũng không phải là hoàn toàn khó hiểu. Bởi lẽ, ngày nay, dường như các em có điều kiện đầy đủ nhất để tiếp thu giáo dục và để bộc lộ những phẩm chất ưu việt của nền văn hiến dân tộc đã được đúc từ ngàn đời nay trong huyết mạch cha ông. 2. Có những thành tựu và những tài năng nghệ thuật trong lĩnh vực thơ ở độ tuổi thiếu nhi, một phần là do sự quan tâm giáo dục của Đảng, của Bác Hồ, của nhà trường dưới chế độ mới, và một phần nữa khong kém quan trọng là do chính các em và gia đình đã có ý thúc rất sớm về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc. 3. Tài năng có thể phát lộ rất sớm. Nó đặt ra cho những người viết sách, những người làm công tác giáo dục, những thầy cô giáo một nhiệm vụ thường trực là: chú ý phát hiện năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước ngày từ thuở ấu thơ của tất cả các em BÀI TẬP THỰC HÀNH Chọn một số bài thơ của Trần Đăng Khoa và của một vài tác giả thiếu nhi khác để tập đọc diễn cảm và phân tích làm nổi bật những đặc trưng trong thơ các em. VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI I. SƠ LƯỢC VỀ VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI ĐÃ DỊCH SANG TIẾNG VIỆT 1. Vài nét về thành tựu Mảng văn học trẻ em nước ngoài dịch ra tiếng Việt, lâu nay được coi là bộ phận bổ sung và làm phong phú cho nền văn học thiếu nhi trong nước, nhất là khi kinh nghiệm trong nước còn thiếu và sách sáng tác còn ít. Cần quan niệm rõ hơn về sách dịch. Sách dịch không nên coi là bộ phận thứ cấp, mà phải coi nó như một bộ phận cần phải có, không thể thiếu. “Nếu một dân tộc cùng với nền văn học của dân tộc ấy chỉ biết những cái của mình, không hề biết đến các dân tộc và các nền văn học xung quanh, thì phải nói rằng dân tộc đó, cùng với nến văn học của nó đang trên con đường hấp hổi ”. Vì vậy không thể coi sách dịch là bộ phận thêm thắt cho một nền văn học. Nó phải là một bộ phận hữu ích và gắn bó hữu cơ với mỗi nền văn học. Xuất phát từ quan niệm như vậy, chúng ta đã chọn dịch những tác phẩm đặc sắc của các nền văn học trẻ em trên thế giới, đặc biệt của các nước có nền văn học trẻ em tiên tiến như Nga, Đức, Đan Mạch và các nước tiên tiến khác. Những sách dịch tiêu biểu, có giá trị tư tưởng và nghệ thuật như “Rôbinxơn Cruxô” của Đanien Đê Phô; “Không gia đình” của Héctô Malô; “Túp lều bác Tôm” của Bítchơxtô. Bên cạnh những tác phẩm cổ điển nói trên, chúng ta còn chọn dịch những tác phẩm xuất sắc của văn học thiếu nhi Liên Xô (cũ) như “Trường học dũng cảm” của A.Gaiđa; “Thôn tiểu Bắc đẩu” của Muasatốp; “Chiếc đồng hồ”, “Lời hứa danh dự” của Păngtêlêép; “Một đêm vất vả” của Rôưchukhôva; “Vichia Malêép ở nhà và ở trường” của N. Nôxốp và hàng loạt các sách dịch khác về các loai truyện khoa học, truyện đồng thoại, thơ và cả văn học châu Mĩ Latinh. Như vậy, có thể nói rằng, sách dịch đã mở ra một chân trời rộng lớn, một thế giới cảnh vật giàu đẹp với bao dân tộc và phong tục tập quán khác nhau. Sách dịch như một cánh cửa rọi thêm ánh sáng vào nên văn học trẻ em trong nước. Khai thác những kinh nghiệm nước ngoài qua mảng sách dịch là một việc làm cần thiết và bổ ích, đồng thời cũng là để xây dựng một bộ phận sách dịch có quan hệ mật thiết với nền văn học trẻ em trong nước. 2. Những giá trị cơ bản nhất Mảng văn học trẻ em nước ngoài được dịch ra tiếng Việt tương đối nhiều. Có không ít tác phẩm đã được đưa vào sách giáo khoa của bậc tiểu học và trung học cơ sở. Bộ phận văn học này đã góp phần mở rộng tầm nhìn cho học sinh nhỏ tuổi, bước đầu dắt dẫn các em làm quen với một thế giới văn học của các nước bè bạn trên hành tinh này. Như đã nói ở phần trên, mảng văn học trẻ em nước ngoài dịch ra tiếng Việt phải được coi là một bộ phận hữu cơ của nền văn học trẻ em trong nước, nó bổ sung cho nền văn học trẻ em trong nước thêm phong phú, đa dạng. Nhìn chng, mảng văn học dịch này đã được khai thác và bổ sung cho nền văn học trẻ em trong nước ở những khía cạnh sau: Khẳng định những tiềm năng to lớn của con người về trí tuệ, về lòng nhân ái, về khả năng chinh phục thiên nhiên và sáng tạo ra cái mới. - Thông qua các hình tượng văn học vừa huyền diệu, vừa chân thực nhằm khẳng định những chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, trong lao đọng và trong luân lí thông thường của đời sống. Các truyện ngụ ngôn của La Phôngten, truyện cổ Grim, truyện cổ Bungari, Nghìn lẻ một đêm là những ví dụ sinh động trong việc khẳng định các chuẩn mực của con người nói chung trên thế gian này từ gia đình, nhà trường đến xã hội. - Mảng văn học dịch này cũng góp phần làm cho trẻ em nước nhà thấy rõ: ở đâu cũng vậy, cái ác luôn xen lẫn với cái thiện, luôn phải đấu tranh, phải vượt qua nhiều tâng gian khổi mới giành được thắng lợi. Cũng chính vì thế, nó nhắc nhở con người, một khi đã có khát vọng chân chính, có quyết tâm sắt đá thì phải không ngừng trang bị cho mình những phẩm chất, những năng lực đích thực để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính bản thân mình trong mọi tình huống của cuộc đời. Phải thừa nhận rằng mảng văn học trẻ em nước ngoài dịch ra tiếng Việt đã góp phần không nhỏ vào việc bồi đắp tư tưởng và tình cảm cho trẻ em nước nhà trong mấy chục năm qua. Nhiều em đã tiếp nhận được những tinh túy của văn học trẻ em nước nước ngoài, kết hợp nhuận nhị với những tinh hoa của văn học dân tộc và trở thành những nhân tài phụng sự cho đất nước. II. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU 1. ANĐECXEN Hans Christien Andersen, nhà văn Đan Mạch, sinh ngày 2 tháng 4 năm 1850, mất ngày 4 tháng 8 năm 1875. Ông là con một người thợ giầy. Khi cha mất, mẹ đi bước nữa, ông đã phải tự lập kiếm sống. Ông sống rất gần gửi với tầng lớp thợ thuyền và thường đọc những truyện thần tiên của mình cho họ nghe. Những kẻ quyền quý thường chế giễu ông về “dòng máu dân đen” nhưng ông thì ngược lại, rất tự hào về sự gần gửi của mình với những con người lao khổ ấy. Vốn là một người thông minh, hiếu học, Anđecxen viết văn, làm thơ và thường nói: “Không có truyện kể nào hay hơn được những điều do chính cộng sống tạo nên”. Nhưng người đời biết đến Anđecxen nhiều hơn cả vẫn là ở những truyện cổ tích ông viết cho trẻ thơ. Ở những truyện cổ tích do Anđecxen kể cho có một sức hấp dẫn kì lạ đối với người nghe, bởi vì ở đó, trí tưởng tượng của một tài năng kiệt xuất đã biến hóa các truyện cổ thành một cách riêng. Đánh giá tài năng của Anđecxen, nhà thơ Ighêman đã có những lời như sau: “Anh có một khả năng quý báu đó là trong bất cứ cống rãnh nào cũng tìm ra được ngọc trai”. Còn Pautốpxki thì nhận xét: “trong mỗi truyện cổ tích cho trẻ con của Anđecxen còn có truyện cổ tích khác mà chỉ có người lớn mới có thể hiểu hết ý nghĩa của nó”. Làm được điều đó là vì Anđecxen đã biết khám phá những khía cạnh thần kì, ít người nghĩ tới, ở ngay trong cuộc sống thường ngày, “thổi” cho cúng một linh hồn của thế giới thần thoại đầy chất thơ và giải quyết theo những quan niệm dân chủ tiến bộ của mình, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Truyện của Anđecxen đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Những truyện: “Bộ quần áo mới của Hoàng đế”, “Chú lính chì dũng cảm”, “Nàng công chúa và hạt đậu” mãi mãi vẫn là nguồn hấp dẫn, lôi cuốn con trẻ của muôn đời 2. TÔNXTÔI Lép Nhicôlaiêvích Tônxtôi sinh ngày 28 tháng 8 năm 1828, mất ngày 7 tháng 11 năm 1910. Ông là nhà văn Nga vĩ đại không chỉ nổi tiếng với những tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”, “Anna Karênina”, “Sống lại”, mà còn lưu danh cả với những truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích và truyện ngắn cho thiếu nhi. Viết cho thiếu nhi là một việc làm đầy trách nhiệm trong hoạt động xã hội của L. Tônxtôi. Ông thường mơ ước về một cuộc sống no ấm và học vấn cho con em những người lao động. Ông đã bỏ ra nhiều công sức để soạn sách mở trường dạy chữ cho con em nông dân trong trang trại của mình ở Iaxnaia Pôliana. Những quyển “Sách học vần”, “Sách tập đọc tiếng Nga” là kết quả nhiều năm lao động của L. Tônxtôi dành cho thiếu nhi. L. Tônxtôi đã đưa vào những quyển sách ấy nhiều truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyền đồng thoại và truyền thuyết lấy từ văn học cổ và từ cuộc sống của các dân tộc khác nhau trên khắp thế giới. Ông cũng rất ưa thích và chọn dịch nhiều truyền ngụ ngôn của nhà thông thái cổ Hy Lạp Ê dốp ra tiếng Nga. Song những truyện ngụ ngôn, cổ tích hay đồng thoại ấy dù là dịch, sáng tác hay viết lại, dưới ngoài bút của L. Tônxtôi đều mang đậm phong vị Nga và dấu ấn riêng của ông viết cho trẻ nhỏ: giản dị, trong sáng và nhân hậu, không triết lí hoặc giáo huấn nặng nề. Chính tác giả đã từng nói về những truyện này như sau: “Đâu là mẫu mực về phương pháp và ngôn từ mà tôi đã sử dụng và sẽ thường xuyên sử dụng khi viết cho người lớn”. Sự nghiệp văn chương của L. Tônxtôi, trong đó có cả văn chương cho thiếu nhi, tràn đầy tư tưởng nhân văn, và đúng như Lê nin nhận định là “một bước tiến trong quá trình phát triển nghệ thuật của toàn nhân loại”. 3. GRIM Grim là họ của hai anh em nhà bác học và nhà văn người Đức. Tên đầy đủ của họ là Giacốp Grim, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1785, mất ngày 20 tháng 9 năm 1863; và Vinhem Grim sinh ngày 24 tháng 2 năm 1786, mất ngày 16 tháng 12 năm 1859. Cả hai anh em đều sinh ở Hanove và trưởng thành ở Mađơbuốc trong một gia đình công chức. Cả hai anh em đều tốt nghiệp đại học luật và đều dành nhiều thì giờ và tâm lực cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn học. Họ đã tứng làm việc quản lý thư viện, giáo sư đại học và trở thành Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Béclin. Hai anh em đều có những công trình riêng, nhưng đặc biệt họ đã phối hợp để biên soạn những công trình có giá trị như: “Từ điển tiếng Đức” và tập sách nổi tiếng toàn thế giới là “Truyện cổ trẻ em và truyện kể trong nhà”. Công trình này nghiên cứu và sưu tập các truyện cổ dân gian, có cách dựng truyện đậm nét phong cách riêng, giàu chất lãng mạn, rất phù hợp với tính cách hồn nhiên, nhạu cảm của tuổi thơ. Bộ sách này gồm 200 truyện, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng (“Truyện cổ Grim” đã được dịch ra tiếng Việt). Những truyện nổi tiếng hầu như đã đi vào kí ức tuổi thơ đất Việt như “Bạch Tuyết”, “Người đẹp ngủ trong rừng”, “Lọ Lem”, “Cong Ngỗng vàng” Hai anh em nhà Grim đã có những cống hiến vĩ đại cho ngành nghiên cứu văn học dân gian, cho khoa học ngôn ngữ và văn học của dân tộc Đức, và trong chừng mực nhất định cũng là cống hiện cho nhân loại. 4. PERON Sáclơ Perôn sinh ngày 12 tháng 1 năm 1628, mất ngày 16 tháng 5 năm 1703. Ông sinh trưởng trong một gia đình quyền quý, khá giả, được chăm sóc rất chu đáo ngay từ thuở nhỏ. Cha ông là một luật sư. Sau này, Perôn cũng là một luật sư, và ông còn là nhà văn, nhà điêu khắc, rồi trở thành Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Perôn có nhiều công trình nghiên cứu, sáng tác, nhưng ngày nay ít ai biết đến, mà người ta chỉ nhớ những truyện kể của Perôn mà thôi. Các tập truyện “Những truyện kể thời xưa”, “Những truyện kể của Mẹ Ngỗng của tôi” đã được người đọc ở thế kỉ XVII rất ưa thích. Những truyện nổi tiếng như: “Người đẹp ngủ trong rừng”, “con yêu râu xanh”, “Lọ lem”, “Cô bé quàng khăn đỏ”, “Con mèo đi hia” đã được dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt, và cũng đã từng làm mê hồn bạn đọc nhỏ tuổi nước ta từ thời trước Cách mạng Tháng Tám. Có thể nói rằng nhuwgnx truyện của Perôn đã đem lại cho bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam thời ấy những điều kì thú từ chân trời phí Tây 5. FUJIKO F.FUJIO Đó là giáo sư họa sĩ Nhật Bản, tác giả bộ tranh truyện “Đôrêmon” đã từng làm say mê hàng triệu trẻ em Việt Nam trong mấy năm gần đây. Tập trianh truyện “Đôrêmon” giàu tính giáo dục và hấp dẫn; truyện kể về một chú mèo máy tài ba, có nhiều phép là của cổ tích thời hiện đại, có khả năng giúp đỡ và đoàn kết bạn bè “Đôrêmon” thể hiện năng lực sáng tạo tuyệt vời của tác giả Fujiko, ông đã dành trọn hai mươi bảy năm trong cuộc đời hội họa của mình để tạo nên tác phẩm “Đôrêmon” có giá trị giáo dục tốt, được trẻ em nhiều nước trên thế giới yêu thích. Và một điều thật thú vị là giáo sư họa sĩ Fujiko - tác giả bộ tranh truyện “Đôrêmon” - cổ tích của thời hiện đại này, đã đến Hà Nội ngày 22 tháng 1 năm 1996 theo lời mời của Nhà xuất bản Kim Đồng. Cuộc hội ngộ giữa tác giả “Đôrêmon” với các độc giả nhỏ tuổi Việt Nam thật cảm động. Tác giả Fujiko và công ty Shogakugan đã kí với Nhà xuất bản Kim Đồng một đề án thành lập Quỹ hỗ trợ giáo dục trẻ em Việt Nam; tác giả và công ty Shogankukan sẽ dành cho quỹ này tiền bản quyền trị giá một tỉ đồng Việt Nam vào việc xây dựng Quỹ hỗ trợ giáo dục trẻ em Việt Nam. Thế giới mới hay, sự giao lưu van hóa đã làm cho con người hiểu biết, quý mến và gần gũi nhau hơn. III. MỘT VÀI KẾT LUẬN 1. Văn học trẻ em nước ngoài được dịch ra tiếng Việt đã thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ của nền văn học trẻ em nước nhà. Trong những năn qua, mảng văn học dịch đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển cách cảu bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam. Giá trị nhân văn cao cả của mảng văn học dịch luôn luôn là hàng tranh tinh thần cho thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mình, đồng thời nó cũng là chiếc cầu nối giữa bạn đọc nhỏ tuổi Việt Nam với những tinh hoa của cộng đồng nhân loại. 2. Nhiệm vụ của các nhà văn, nhà giáo trong thời kì đổi mới hiện nay hết sức nặng nề, phức tạp. Chúng ta cân phải lựa chọn dịch và xuất bản thêm nhiều tác phẩm tốt trong kho tàng văn học trẻ em trên thế giới để làm phong phú thêm tư tưởng và tình cảm của trẻ em nước nhà, và cũng là để làm giàu có thêm nền văn học trẻ em đất Việt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtmn0027_p2_3438.pdf