Đầu tư và đầu tư công là một khái niệm mở và có nhiều cách hiểu không hoàn toàn giống nhau, cả trong nước, cũng như trên thế giới. Trong kinh tế học, khái niệm đầu tư được hiểu là việc sử dụng vốn tư bản vào kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và tăng cường sức sản xuất trong tương lai. Còn hiện nay xã hội quan niệm đầu tư là việc sử dụng vốn dưới mọi hình thức bằng các tài sản hữu hình (tiền, nhà xưởng, máy móc,.) hoặc vô hình (phát minh, sáng chế, thương hiệu,.) thông qua các công cụ và phương thức đầu tư (trực tiếp hay gián tiếp, doanh nghiệp hay dự án, một mình hay cổ phần ) để nhằm đạt được lợi ích nào đó trong tuơng lai theo mục đích đặt ra của chủ đầu tư, trong đó thuờng ưu tiên các mục tiêu kinh tế, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Tùy theo sở hữu nguồn vốn đầu tư mà phân thành đầu tư công hay đầu tư tư nhân. Quản lý vốn đầu tư công thuờng là thuộc chức năng của chính phủ, vì vậy đầu tư công thường được đồng nhất với đầu tư mà các cơ quan chính phủ hoặc doanh nghiệp của chính phủ thực hiện. Ở Việt Nam, khái niệm “đầu tư công” được sử dụng từ sau khi Đảng và nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung được chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy, Đầu tư công được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, không nhằm mục đích kinh doanh. Theo cách hiểu này thì lĩnh vực đầu tư công sẽ bao gồm:
- Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng – kĩ thuật, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực khác;
- Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội, kể cả việc mua sắm, sữa chữa các tài sản cố định của các tổ chức này;
- Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị – xã hội được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo qui định của pháp luật;
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ (trong đó có hình thức hợp tác công – tư PPP).
Việc đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước không nằm trong đầu tư công.
211 trang |
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 983 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tái cơ cấu đầu tư công để phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, cơ quan quyết định đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có thể thực hiện đánh giá đột xuất dự án đầu tư thuộc quyền quản lý của mình. Tuy nhiên, như đã nhấn mạnh ở một số phần trước, nhìn chung hiệu quả và hiệu lực của hoạt động này rất thấp.
4. Phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam và tác động đối với hiệu quả đầu tư công
Kể từ Đổi mới, Chính phủ luôn chủ trương đẩy mạnh phân cấp nói chung và phân cấp quản lý đầu tư công nói riêng. Các chủ trương, định hướng, hành lang pháp lý, và chính sách phân cấp quản lý đầu tư công tồn tại ở nhiều văn bản khác nhau. Chủ trương và định hướng phân cấp quản lý đầu tư công được trình bày trong Nghị quyết 08/2004/NQ–CP ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Nghị quyết này bao trùm các lĩnh vực phân cấp chủ yếu nhất, bao gồm quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức.
Khuôn khổ pháp lý cho quản lý đầu tư công được trình bày trong Luật Ngân sách nhà nước 2002, Luật Đầu tư 2005, Dự thảo Luật Đầu tư công (2012), và nhiều đạo luật, nghị định, thông tư khác, một số đã được nêu ở các phần trước của bài viết này. Mục đích của phần này là điểm lại một số nguyên tắc, chính sách, và hệ quả của phân cấp đầu tư công ở Việt Nam.
4.1. Một số nguyên tắc quản lý đầu tư công ở Việt Nam
Bên cạnh những quan điểm và nguyên tắc chính thống được trình bày trong Nghị quyết 08/2004/NQ–CP thì trên thực tế, chính sách phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt Nam còn được định hướng bởi hai nguyên tắc quan trọng khác. Nguyên tắc đầu tiên là “phân cấp từ trên xuống”, có nghĩa là những gì ở cấp trên không cần làm thì cấp dưới sẽ thực hiện” (từ trên xuống). Điều này hoàn toàn không tương ứng với nguyên tắc phân cấp phổ biến trên thế giới là “những gì cấp dưới không làm được thì cấp trên mới phải làm” (từ dưới lên). Nguyên tắc phân cấp từ trên xuống đã đẩy đến hiện tượng cấp dưới luôn cảm thây bị gò bó và cấp trên luôn ở trong tình trạng quá tải và không thể kiểm soát được đồng thời tiếp tục làm tăng tính ỷ lại ở chính quyền cấp dưới.
Nguyên tắc thứ hai là phân cấp theo quy mô, hay còn gọi là “nắm to, buông nhỏ”. Đây là một trong những tiêu chí chủ đạo trong quá trình phân cấp quản lý đầu tư công ở Việt nam. Cụ thể là mức độ phân cấp đối với các chức năng và nhiệm vụ quản lý đầu tư công thường phụ thuộc vào quy mô và tầm quan trọng của dự án, được chia thành các dự án quan trọng quốc gia, nhóm A, nhóm B, và nhóm C.
Một nguyên tắc quan trọng nữa đối với việc quản lý các dự án đầu tư công liên quan đến nguồn tài chính. Một cách tương đối nhất quán, chính quyền cấp tỉnh được quyền tự quyết gần như hoàn toàn đối với các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương (tất nhiên là với điều kiện phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội và khả năng quản lý của địa phương). Tuy nhiên, thực trạng ở Việt Nam là có tới hơn 50 tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách. Rất nhiều tỉnh thậm chí còn không tự cân đối được ngân sách chi thường xuyên. Chính vì vậy, đa số các dự án đầu tư ở địa phương (kể cả các dự án đầu tư của Trung ương) đều phải trông chờ vào nguồn trợ cấp từ trên xuống.
4.2 Phân cấp đối với các chức năng quản lý đầu tư công ở Việt Nam
Trong phần này, khi bàn về phân cấp đầu tư công, chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi các dự án có nguồn vốn Trung ương. Các nội dung và chức năng của quản lý đầu tư công được minh họa trong Hình 20. Chính sách phân cấp liên quan đến các nội dung và chức năng này có thể đưa đến rất nhiều cấu hình (hay trạng thái) phân cấp khác nhau giữa chính quyền Trung ương và địa phương, cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Hình 20: Sơ đồ nội dung và chức năng quản lý đầu tư công
Cần lưu ý rằng chính sách và quá trình phân cấp đầu tư công không được định hình và thực hiện một cách biệt lập mà trong một môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và pháp luật nhất định – gọi chung là môi trường thế chế theo nghĩa rộng của thuật ngữ này Thể chế (institution) theo Douglass North (1990) bao gồm các quy tắc thành văn và không thành văn cũng những cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này.
. Do vậy, thiết kế – và đương nhiên là cả kết quả – của chính sách phân cấp đầu tư công phụ thuộc vào môi trường thế chế chung của quốc gia. Một cách khái quát, các môi trường thể chế khác nhau sẽ tạo ra những động cơ khuyến khích khác nhau, từ đó đưa đến những hành vi và cuối cùng là các kết quả khác nhau. Những kết quả này, đến lượt mình, lại có tác động trở lại đối với môi trường thể chế, có thể theo hướng củng cố mà cũng có thể theo hướng làm rạn nứt các thể chế hiện tại. Và vòng lặp này cứ thế tiếp tục tái diễn.
Vì chính sách phân cấp đầu tư công cụ thể phụ thuộc vào từng nội dung (hay lĩnh vực) đầu tư, quy mô dự án, cấp địa phương nhận phân cấp, nguồn tài trợ v.v… nên rất khó khái quát hóa. Trong những phần trước, chúng tôi đã thảo luận chính sách phân cấp (nếu có) ở từng khâu trong quá trình quản lý đầu tư công. Vì vậy, ở phần này, chúng tôi sẽ chỉ xem xét một nhóm các dự án đầu tư công lớn trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, cụ thể là đường bộ, sân bay, cảng biển, khu kinh tế, và điện.
Căn cứ vào kết quả phân tích, có thể phủ định ý kiến cho rằng tình trạng đầu tư tràn lan của các địa phương hiện nay có nguồn gốc từ chính sách phân cấp quá mức và chủ yếu do lỗi của địa phương. Mặc dù không thể phủ nhận một thực tế là nhiều địa phương đã lợi dụng nhiều khe hở của quá trình phân cấp nhưng suy đến cùng, chính sự thiếu giám sát, điều phối và kỷ luật lỏng lẻo của Trung ương cùng với chất lượng quy hoạch thấp là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới tình trạng đầu tư lan tràn, chồng chéo, và kém hiệu quả.
Cần nhấn mạnh rằng gốc gác của tình trạng phân tán và chồng chéo trong đầu tư công xuất phát ngay từ trong quy hoạch. Vì ở Việt Nam, Chính phủ quản lý thống nhất công tác quy hoạch, nên trách nhiệm đầu tiên phải thuộc về các bộ ngành Trung ương. Trong cách làm quy hoạch và lập chương trình đầu tư công hiện nay, nhu cầu (mà thực ra là mong muốn) đầu tư của các bộ ngành và địa phương được tổng hợp từ dưới lên. Hiện nay, mỗi bộ ngành và địa phương chỉ chú trọng tới quy hoạch đầu tư trong bộ ngành và địa phương mình – trong nhiều trường hợp là do chạy theo thành tích và lợi ích cục bộ – mà không quan tâm đến quy hoạch đầu tư trong các bộ ngành và địa phương khác. Có thể thấy tình trạng thiếu kỷ luật dẫn đến phá vỡ quy hoạch một cách phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng như sân bay, cảng biển, khu kinh tế, khu công nghiệp v.v.
Hiện nay, cả nước có 39 cảng biển với hơn 100 khu bến cảng, tức là trung bình cứ 30 – 40 km bờ biển lại có một bến cảng. 20 trong số 39 cảng biển này được phân loại là cảng “quốc tế” – là cửa ngõ cho giao thương hàng hóa giữa Việt Nam và thế giới. Với lượng hàng hóa có hạn, việc phân mảnh cơ sở hạ tầng như thế này khiến lượng hàng thực tế qua nhiều cảng thua xa công suất thiết kế, vì vậy làm đội giá thành và giảm sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Chất lượng cảng biển của Việt Nam xếp hạng 97/139 quốc gia, thua xa nhiều nước trong khu vực như Malaixia (19), Thái–lan (43), Trung Quốc (67), Campuchia (82). Còn theo báo cáo Làm kinh doanh 2010 của Ngân hàng Thế giới thì chi phí tiền tệ và thời gian trung bình để thực hiện các thủ tục xuất khẩu một container ở Việt Nam là 555 đô–la và 22 ngày, trong khi ở Trung Quốc là 500 đô–la và 21 ngày, ở Thái–lan là 625 đô–la và 14 ngày, ở Malaixia là 450 đô–la và 18 ngày, còn ở Singapore là 456 đô–la và 5 ngày. Tương tự như vậy, Việt Nam hiện có 14 sân bay quốc nội và 8 sân bay “quốc tế”, trong đó nhiều sân bay cách nhau chỉ từ 1 đến 2 giờ lái xe nhưng vừa qua tiếp tục bổ sung thêm 4 sân bay nữa là Thanh Hóa, An Giang, Kon Tum và Long Thành. Ngay cả khi sân bay Cần Thơ chỉ sử dụng chưa tới 20% công suất và đang thua lỗ thì sân bay An Giang cách đó khoảng 70 km (và cách sân bay Rạch Giá khoảng 60 km) vẫn được đưa vào quy hoạch với số vốn đầu tư lên tới 3.400 tỷ chưa biết huy động từ đâu. Tính dàn trải và kém hiệu quả cũng thể hiện rất rõ trong việc phát triển hạ tầng công nghiệp. Theo Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, cả nước có 18 khu kinh tế ven biển, 267 khu công nghiệp, 918 cụm công nghiệp với tỷ lệ lấp đầy đăng ký lần lượt là 4%, 46%, và 26%.
Hãy nhìn kỹ hơn vào trường hợp cảng biển. Theo quy hoạch (Quyết định 2190/QĐ–TTg ngày 24/12/2009) thì đến năm 2020 cả nước sẽ có 39 cảng biển với khoảng 100 khu bến cảng tổng hợp. Thế nhưng từ bản phê duyệt quy hoạch của Thủ tướng đến bản quy hoạch chi tiết của Bộ Giao thông – Vận tải, số lượng bến cảng không ngừng mọc thêm. Lấy ví dụ như nhóm cảng số 6 ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo Quyết định 2190/QĐ–TTg thì ĐBSCL sẽ có 14 cảng biển với 21 bến tổng hợp. Chưa đầy 2 năm sau, đến Quyết định 1746/QĐ–BGTVT ngày 3/8/2011 về quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển đồng bằng sông Cửu Long, con số bến tổng hợp đã tăng lên 27. Đấy là chưa kể đến 21 bến cảng chuyên dùng, phục vụ cho hoạt động kinh doanh xăng dầu, gas, và nhiệt điện cũng mới được đưa vào quy hoạch.
4.3. Một số hạn chế của chính sách phân cấp đầu tư công
Phân cấp đồng loạt và đại trà
Nếu xét địa phương như là đơn vị phân cấp thì các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam được chia ra thành ba nhóm. Nhóm một gồm Hà Nội và Hồ Chí Minh được hưởng chính sách phân cấp đặc biệt theo Nghị định 123/2004/NĐ–CP và 124/2004/NĐ–CP. Nhóm hai gồm ba thành phố trực thuộc Trung ương còn lại, bao gồm Hải Phòng, Đà Nẵng, và Cần Thơ, với hưởng chính sách phân cấp không rộng rãi như nhóm một, nhưng thông thoáng hơn so với nhóm ba, bao gồm 58 tỉnh còn lại, được hưởng chung một chính sách phân cấp, bất chấp sự khác nhau hiển nhiên về quy mô, không gian tài khóa, nguồn lực, năng lực v.v... của những địa phương này. Việc có một tấm áo phân cấp chung cho hầu như tất cả các địa phương là điều có thể hiểu được từ góc độ chính quyền Trung ương, song điều này hạn chế hiệu quả của chính sách phân cấp. Một hệ thống phân cấp hiệu quả sẽ điều chỉnh mức độ tự quyết của chính quyền mỗi tỉnh sao cho phù hợp nhất với năng lực của chính quyền tỉnh đó. Tất nhiên, khi không gian phân cấp của một địa phương nào đó trở nên rộng rãi hơn thì cũng cần phải quy định trách nhiệm giải trình chặt chẽ hơn và công tác điều hành của chính quyền của địa phương đó phải minh bạch hơn.
Phân cấp không đồng bộ
Phân cấp ở Việt Nam không đồng bộ, cụ thể là các nội dung khác nhau của phân cấp không song hành với nhau, và do vậy không những không tạo ra tác dụng cộng hưởng mà còn hạn chế hiệu quả của phân cấp. Chẳng hạn như phân cấp về thẩm quyền quyết định đầu tư cho địa phương khá rộng, song phân cấp nguồn thu lại không được điều chỉnh một cách tương ứng. Kết quả là trong khi không gian tự quyết được mở rộng thì nguồn lực tài chính của địa phương lại vẫn như cũ.
Cơ chế phối hợp giữa các địa phương còn yếu
Đây là một hạn chế được tổng kết trong Nghị quyết 08/2004/NQ–CP, nhưng cho đến thời điểm này vẫn còn nguyên vẹn. Như các phần trên đã phân tích, quan hệ giữa các địa phương với nhau hiện nay mang tính cạnh tranh nhiều hơn là phối hợp. Mặc dù có tồn tại một số cơ chế điều phối vùng, chẳng hạn như thông qua các Ban chỉ đạo vùng, song Ban chỉ đạo này hoạt động trên cơ sở kiêm nhiệm và bán thời gian, trung bình một năm chỉ gặp nhau vài lần. Hơn nữa, nguồn lực về con người, tài chính, và tổ chức của các Ban chỉ đạo đều rất hạn chế. Tất cả những điều này dẫn đến một hệ quả là việc phối hợp giữa các địa phương với nhau hiện nay rất lỏng lẻo.
Cơ chế giám sát đầu tư công còn thiếu và yếu
Như đã thảo luận, các cơ chế giám sát đầu tư công hiện nay vừa tồn tại xung đột về lợi ích (chủ đầu tư vừa thẩm định, giám sát, và đánh giá kết quả) vừa kém hiệu lực. Bên cạnh đó, cũng tồn tại một cơ chế giám sát nữa, ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng, đó là thông qua các cơ quan đại biểu dân cử. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp còn rất hạn chế. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân có tính kỹ thuật và những nguyên nhân có tính thể chế. Về phương diện kỹ thuật, thời gian, ngân sách, và các nguồn lực khác phục vụ cho hoạt động giám sát hết sức hạn chế, đồng thời nguồn thông tin và dữ liệu không đủ, dẫn đến các cơ quan dân cử không thể sâu sát trong việc giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân. Về phương diện thể chế, tỷ lệ chuyên trách của đại biểu Hội đồng nhân dân rất thấp (chỉ khoảng từ 10% đến 30% tùy từng địa phương). Điều này có nghĩa là đa số đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, chủ yếu là công chức nhà nước. Bên cạnh đó, hơn 90% số đại biểu là Đảng viên. Như vậy, câu hỏi đặt ra là những đại biểu này đại diện cho ai, cho dân, cho chính quyền, cho Đảng, hay cho cả ba. Bên cạnh đó, các cơ chế để những người dân chịu tác động trực tiếp có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định và giám sát quá trình đầu tư hiện nay chỉ mang tính hình thức, vì vậy không phát huy hiệu lực.
PHẦN 9: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG
1. Thành tựu và tồn tại
Khi đánh giá kết quả của đầu tư công, hiện nay ở nước ta thường dẫn ra những bằng chứng về số lượng các công trình đã xây dựng, năng lực sản xuất và dịch vụ đã được tăng lên. Điều dễ thấy là đầu tư công trong những năm qua đã làm thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ thuật của đất nước, nhờ đó đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước, trong đó có việc tạo điều kiện để các thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển, và góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Đầu tư kết cấu hạ tầng trong những năm gần đây là rất lớn, ước tính tổng lượng vốn đầu tư phát triển hạ tầng trong 10 năm qua đạt khoảng 1.490 nghìn tỷ VNĐ, tương đương khoảng 80 tỷ USD, chiếm khoảng 24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP. Trong tổng đầu tư cho hạ tầng, phần lớn là đầu tư của Nhà nước.
Hạ tầng giao thông đã phát triển vượt bậc trong 10 năm qua. Mạng lưới vận tải được mở mang đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Việc mở rộng mạng lưới giao thông ở các vùng, đặc biệt là miền núi, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, đã tạo điều kiện và thúc đẩy các vùng này phát triển, góp phần giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng. Mật độ đường bộ tăng lên đáng kể từ 0,66km/km2 năm 2000 lên tới 0,77km/km2 vào năm 2010. Các tuyến đường bộ kết nối giữa cảng biển, sân bay đã được đầu tư, bước đầu đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực.
Hệ thống năng lượng trong nhiều năm qua đã được tập trung đầu tư phát triển nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và theo hướng đa dạng hóa nguồn cung cấp, từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thủy năng, nguồn than tới với cơ cấu nguồn đa dạng gồm năng lượng than, dầu khí, thủy năng, và các dạng năng lượng khác.
Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin được xây dựng rộng khắp và hiện đại. Mạng thông tin quốc gia phát triển nhanh, hiện đại với độ bao phủ rộng khắp cả nước, kết nối với thông lượng lớn tới các nước trong khu vực và thế giới. Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển khá nhanh, ứng dụng công nghệ thông tin trở nên rộng khắp, trong mọi lĩnh vực và phổ biến trong xã hội. Nhờ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng mạng viễn thông, công nghiệp công nghệ thông tin đã trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tốc độ phát triển cao, có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng.
Năng lực của các hệ thống hạ tầng thủy lợi được nâng cao hơn đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và đáp ứng cơ bản nhu cầu nước cho phát triển công nghiệp dịch vụ và đô thị.
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh. Nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như giao thông, cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.
Hạ tầng cho các ngành giáo dục, y tế, văn hóa xã hội đã được đầu tư phục vụ nhu cầu tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho nhân dân.
Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả của đầu tư công đòi hỏi không chỉ đo đếm số lượng những kết quả đạt được, mà còn phải xem xét mối tương quan về lượng giữa số vốn đã bỏ ra và kết quả đạt được. Tính chung trong 20 năm qua, vốn là nhân tố chủ đạo của sự tăng trưởng, đóng góp tới 46% mức độ tăng trưởng, nhân tố lao động khá ổn định, chỉ chiếm tỷ lệ 20%, nhân tố tiến bộ công nghệ và quản lý chiếm 34%, nhưng đã ngày càng đi xuống, mặc dù khi phân tích sâu thì việc ứng dụng tiến bộ công nghệ, như công nghệ thông tin, viễn thông, năng lượng, xây dựng, sinh học đã được nâng lên. Trong thời gian 10 năm gần đây, tác động của nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu chỉ còn 20%, gần giống như nhân tố lao động 21%, trong khi nhân tố vốn đã tăng lên 59%.
Một thước đo hiệu quả vốn đầu tư thường được dùng phổ biến hiện nay là hệ số suất đầu tư (Incremental Capital Output Ratio – ICOR), hay còn gọi là hệ số sử dụng vốn, hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm. Hệ số này phản ảnh cần bao nhiêu đồng vốn tăng thêm để tạo ra một đơn vị tăng lên của GDP.
Nếu xét hiệu quả đầu tư từ tổng vốn đầu tư, để tăng một đồng GDP cần bỏ ra 5,2 đồng vốn, có thể thấy hiệu quả đầu tư của Việt nam trong giai đoạn 2000–2007 thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đây (chỉ vào khoảng 2–3 trong thời gian 1970–1984). Khi ở trình độ phát triển thấp tương đương với Việt Nam hiện nay vào những năm 1950–1975, hệ số ICOR của Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ dao động trong khoảng 1–2. Thậm chí trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, ICOR ở các nước cũng thấp hơn con số 5.
Vốn đầu tư của toàn nền kinh tế kém hiệu quả (5,2) là do suất đầu tư của khu vực của nhà nước quá cao (7,8) và của khu vực đầu tư nước ngoài thuộc loại cao (5,2), trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước lại có hiệu quả đồng vốn hợp lý.
So với ICOR tính theo tổng vốn đầu tư thì điều này cho thấy có một số lượng vốn đáng kể được bỏ ra nhưng đã không trở thành tài sản. Nói một cách khác là hiệu quả đồng vốn bỏ ra kém là bởi vì đã phải chi cho nhiều khâu không trực tiếp liên quan tới sản xuất.
Điều hiển nhiên là đầu tư của khu vực nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế cao như đầu tư của khu vực tư nhân, bởi vì trong rất nhiều trường hợp mục đích của đầu tư công không phải nhằm vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế. Ngay cả phần lớn doanh nghiệp nhà nước, tuy có mục tiêu chính là sản xuất kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận càng nhiều càng tốt, nhưng vẫn còn phải thực hiện một số mục tiêu “phi lợi nhuận” như tạo điều kiện phát triển cho các vùng nghèo, có điều kiện khó khăn, sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, các sản phẩm và dịch vụ ít lãi, thậm chí lỗ vốn, v.v…Tuy vậy, cũng không phải vì vậy mà có thể biện minh cho việc đầu tư kém hiệu quả của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng, v.v…
Các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách ưu đãi. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên tiếp cận vốn tín dụng. Ngân sách nhà nước có một khoản đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước với số tiền tăng lên hàng năm. Chính phủ cũng đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước lớn đi vay nợ với lý do để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng. Với sự ưu đãi như vậy, một số doanh nghiệp nhà nước lớn (tập đoàn, tổng công ty) đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Một số lĩnh vực đã có tiến bộ vượt bậc trong thời gian ngắn như viễn thông, dầu khí, đóng tàu biển.
Song Chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với việc đầu tư. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được coi là “tự chủ” của doanh nghiệp, nên quá trình kiểm tra, kiểm soát chưa cao. Các bộ cũng không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt động ngoài ngành nghề chính, độc quyền và có khả năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh doanh thua lỗ. Tình trạng sử dụng chưa hiệu quả vốn đầu tư ở các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành phổ biến và đáng báo động.
Mặc dù những xu hướng xấu này đã được cảnh báo từ lâu, thậm chí được Quốc hội phân tích và yêu cầu chấn chỉnh trong nhiều cuộc họp một số năm gần đây, nhưng việc cải cách hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hầu như chưa có chuyển biến đáng kể. Hậu quả xấu không tránh khỏi là một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản. Vinashin là trường hợp điển hình.
2. Các nguyên tắc đổi mới quản lý nhà nước đối với đầu tư công trong xu hướng hội nhập
Hiệu quả đầu tư công tùy thuộc mạnh vào một số nguyên tắc quản lý sau:
2.1. Phối hợp bố trí vốn đầu tư công trên cơ sở quy hoạch đầu tư công được xây dựng bảo đảm chất lượng cao và ổn định. Một mặt, cần coi trọng nâng cao chất lượng và giữ ổn định các quy hoạch đầu tư phát triển các loại được lập cả ở cấp quốc gia, ngành, cũng như địa phương, coi đây như một căn cứ chủ yếu định hướng đầu tư công, hạn chế và tiến tới không đầu tư công ngoài quy hoạch, phá vỡ quy hoạch hay bất chấp quy hoạch. Mặt khác, sự điều chỉnh và hoàn thiện các quy hoạch đầu tư đã lập cũng là cần thiết, cần được tiến hành nghiêm túc, có căn cứ xác đáng, có quy trình và thời gian nhằm hạn chế thấp nhất những thiệt hại cho các bên liên quan vì nếu quy hoạch sai, lộ trình đầu tư không hợp lý và không được thẩm tra đầy đủ thì quá trình đầu tư sẽ không thể có hiệu quả trong dài hạn.
Sau khi có quy hoạch, cần chủ động xây dựng và công bố danh mục dự án, công trình đầu tư cụ thể để huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển theo các hình thức BOT, BT, PPP; tạo ra các cơ chế để huy động tối đa, hiệu quả những nguồn vốn xã hội, giảm dần sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách nhà nước; khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia đấu thầu thực hiện các dự án có vốn ngân sách nhà nước và kể cả vốn ODA.
2.2. Phối hợp hài hòa các mục tiêu, lợi ích và tính đến tác động hai mặt của dự án đầu tư công. Cần xây dựng bộ tiêu thức phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án đầu tư công theo lĩnh vực và yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế – xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích của quốc gia và địa phương, ngành, ngắn hạn và dài hạn; có phân biệt hai loại mục tiêu và hai loại tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư công – đầu tư vì lợi nhuận và đầu tư phi lợi nhuận.
Không nên đóng khung sự phối hợp chính sách chỉ trong nội bộ các cơ quan chính phủ với các doanh nghiệp nhà nước, mà cần gắn kết chặt chẽ, mở rộng dân chủ hóa với giới doanh nghiệp, các viện, trường và người dân. Sử dụng chuyên gia trong nước và nước ngoài có trình độ nhằm đánh giá khách quan, phản biện độc lập các tác động hai mặt của dự án đầu tư công lớn. Làm tốt việc này sẽ hạn chế bớt những hoạt động đầu tư công gắn với lợi ích cục bộ, chủ quan và ngắn hạn.
2.3. Phối hợp tăng cường tái cơ cấu đầu tư công, phân cấp và đa dạng hóa phương thức, nguồn vốn đầu tư theo yêu cầu nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội. Về dài hạn, cần chủ động giảm thiểu dần đầu tư công, tăng đầu tư ngoài ngân sách nhà nước trong tổng đầu tư xã hội; tái cơ cấu đầu tư công, tăng đầu tư phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản, khoa học và công nghệ, đào tạo và y tế; tiết giảm việc cấp vốn ngân sách cho nhu cầu đầu tư của khối các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước và chuyển trọng tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực kinh tế, để tập trung vào phát triển các lĩnh vực hạ tầng và xã hội. Đồng thời, kiên quyết cắt những dự án đầu tư không đạt các tiêu chí về hiệu quả kinh tế – xã hội và chưa bảo đảm những yêu cầu về thủ tục để tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hoàn thành trong hạn định và có hiệu quả cao. Cắt giảm các công trình đầu tư công bằng nguồn ngân sách có quy mô quá lớn song chưa thật cấp bách, có thời gian đầu tư dài. Khuyến khích các chủ đầu tư huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư theo phương thức “chìa khóa trao tay”, có đặt cọc bảo hành, bảo đảm chất lượng công trình.
Cắt giảm đầu tư công phụ thuộc vào sự chuyển biến trong nhận thức của các ngành, các địa phương về sự cần thiết phải hy sinh lợi ích riêng trước mắt vì mục tiêu chung. Đồng thời, cũng cần có tiêu chí và thời gian để rà soát lại các dự án đầu tư công, tránh quyết định vội vã, lợi bất cập hại. Cần đặc biệt chú ý tiếp tục triển khai những dự án giải quyết vấn đề an sinh xã hội thuộc chương trình mục tiêu, dự án tại vùng khó khăn, khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như các dự án có hiệu quả kinh tế liên ngành, liên vùng cao. Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cần phối hợp chặt chẽ hơn với các bộ, ngành, địa phương để rà soát việc phân bổ vốn ngân sách theo đúng trình tự pháp luật, cũng như giám sát việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Yêu cầu Chính phủ cung cấp thông tin thường xuyên, tăng cường giám sát việc quản lý, sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo nghị quyết của Quốc hội.
2.4. Phối hợp tuân thủ các quy chuẩn về thủ tục và quy trình đầu tư, thực hiện đấu thầu thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- san_pham_du_thao_4_full__0857.doc