Vốn ODA là một phần của nguồn tài chính chính thức mà Chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội các quốc gia này. Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại và vay ưu đãi; trong đó phần viện trợ không hoàn lại và các yếu tố ưu đãi khác chiếm ít nhất 25% vốn cung ứng. Nhiều quốc gia đã thu hút, vận động và sử dụng vốn ODA khá hiệu quả. Song không ít quốc gia lại là bài học không thành công về quản lý vốn ODA. Hơn 15 năm qua, Việt Nam đã có được những thành công đáng kể trong lĩnh vực này, nhưng đồng thời cũng nổi lên nhiều bất cập đòi hỏi Chính phủ và Quốc hội phải quan tâm đúng mức.
31 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài chính doanh nghiệp - Chương I: Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngoài nước, tuy nhiên phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ ba, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA đặc biệt là khâu xây dựng dự án. Cụ thể:
- Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài , hoàn chỉnh hình thành quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho chính phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào chồng chất không có khả năng thanh toán.
- Ban hành qui chế chung cho vay lại các nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các ngành, các địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA.
3.3.2. Giải pháp trong việc huy động, sử dụng và giải ngân nguồn vốn ODA
3.3.2.1 Giải pháp trong huy động vốn ODA.
Thứ nhất, tăng cường vai trò của cơ quan chỉ đạo quốc gia trong việc chỉ đạo thực hiện ODA. Như đã phân tích ở trên, việc triển khai ODA ở nước ta còn chậm và điều này sẽ kéo theo việc huy động ODA sau này gặp khó khăn phải chăng một phần là do ta chưa có cơ quan chuyên trách mạnh về lĩnh vực này. Không phải chỉ dành cho một vài cơ quan hay tổ chức đặc quyền nào tham gia vào các dự án hay chương trình ODA mà đó phải là quyền lợi và nghĩa vụ của toàn dân, của xã hội. Phải làm sao cho mọi người, mọi vùng trên đất nước ta đều được hưởng thành quả của sự hỗ trợ về tài chính mà cộng đồng quốc tế dành cho chúng ta. Nhưng muốn như vậy, phải có cơ quan chuyên trách mạnh, công khai đủ sức và đủ uy tín để đề xuất chủ trương, chính sách với Đảng, nhà nước và hướng dẫn các tổ chức xã hội, các địa phương trong nước xây dựng và thực hiện các dự án vừa phù hợp với đường lối chiến lược của ta vừa phù hợp với mục tiêu ODA.
Thứ hai, mở rộng các quan hệ phi nhà nước. Viện trợ phát triển chính thức bao gồm ba phương thức: viện trợ không hoàn lại (song phương), cho vay với điều kiện ưu đãi (song phương) và các hiệp định đa phương. Nếu như phần cho vay với điều kiện ưu đãi thường dành cho các dự án nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường thì phần viện trợ không hoàn lại thường dành cho mục tiêu phát triển con người như y tế, cung cấp nước sạch, cải thiện điều kiện giáo dục ở nhà trường, bảo tồn khai thác các di sản văn hoá dân tộc Trong những lĩnh vực này không chỉ có vai trò của các tổ chức nhà nước mà còn có vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể, các địa phương, các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi chính phủ. Vì thế, việc mở rộng quan hệ phi nhà nước là một điều kiện quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các nguồn ODA cũng như các nguồn viện trợ khác.
Thứ ba, Hướng dẫn lập dự án và triển khai dự án ODA. Để nhận được tài trợ ODA của các nhà tài trợ thì các địa phương phải xây dựng được các dự án có tính thuyết phục và có khả năng thực hiện được dự án một cách hiệu quả nhưng thường các dự án hỗ trợ loại này thì đối tượng nhận hỗ trợ thường không đủ khả năng để làm những việc như trên. Do đó, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các cơ quan chuyên trách là hết sức cần thiết và quyết định đến hiệu quả của chương trình, dự án.
3.3.2.2 Giải pháp trong việc sử dụng ODA.
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA. ODA nên được coi là nguồn lực có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực trong nước đối với mọi cấp độ thụ hưởng. Một điều cũng quan trọng nữa là cần nâng cao quyền tự chủ trong huy động và sử dụng ODA để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, ngành và địa phương, và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Thứ hai, lựa chọn lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA. Hiện nay ở Việt Nam để nền kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lâu dài thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó, trong thời gian đầu của sự nghiệp CNH, HĐH Việt Nam cần tập trung vốn, đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của nhà nước trong từng thời kỳ.
Về lâu dài, chiến lược sử dụng vốn vay phải theo hướng sử dụng vốn vay nước ngoài phải kết hợp với công cuộc cải cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu hàng hoá, điều chỉnh chiến lược thay thế mặt hàng nhập khẩu.
Thứ ba, giải quyết vốn đối ứng. Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án.
Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án.
Cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội dung của dự án. Các nguồn vốn viện trợ cho từng lĩnh vực cần phải phân bổ theo trật tự ưu tiên với cơ cấu cụ thể, kết hợp với những khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể, phải xác định rõ về vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu, đảm bảo tính khả thi. Nhà nước chỉ bố trí vốn đối ứng cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hút vốn trực tiếp. Các dự án còn lại chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn hơn mới đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA.
Thứ tư, sử dụng ODA có chọn lọc. Một vấn đề quan trọng là ODA cần phải được sử dụng phù hợp và kết hợp hài hoà với các nguồn vốn đầu tư khác. Thực tế, các tranh luận chính sách chính không còn là liệu có nên thu hút ODA hay không mà vấn đề là làm cách nào để tối đa hoá các lợi ích của ODA. Do vậy, chất lượng trong thu hút ODA sẽ quan trọng hơn là số lượng ODA. Điều này có nghĩa là việc huy động và sử dụng ODA cần phải căn cứ vào các yếu tố kinh tế - xã hội và phải đánh giá kỹ các lợi ích mang lại từ việc chuyển giao vốn, kiến thức, công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Thứ năm, tối đa hoá hiệu quả và tác động lan toả của ODA. Việc huy động và sử dụng ODA phải dựa trên sự đánh giá tương quan giữa chi phí và lợi ích của các chương trình và dự án để đảm bảo rằng các chương trình và dự án này có hiệu quả cao, tạo ra tác động lan toả tối đa và đóng góp vào phát triển kinh tế. Một vấn đề quan trọng nữa là tránh việc sử dụng tràn lan và dàn trải vốn ODA, dẫn đến gánh nặng nợ cho đất nước. Hiệu quả của ODA phải được đặt trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Hơn nữa, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành và địa phương phải được xem xét để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA. Không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có, cần phải giữ một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế.
Thứ sáu, Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không dùng trang trải nhu cầu tiêu dung. Thủ tục quản lý phải chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn, không gây phiền hà làm giảm tốc độ giải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án.
Thứ bảy, mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các chương trình và dự án phục vụ các lợi ích công cộng. Huy động sự tham gia của các đối tượng thụ hưởng là một cách quan trọng để đảm bảo nguồn vốn ODA được sử dụng công khai, minh bạch, có hiệu quả, và tránh được thất thoát, lãng phí và tham nhũng.
Thứ tám, xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA. Phân cấp quản lý và sử dụng ODA là tiến trình không thể đảo ngược trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng là Việt Nam cần phải xác định được phân cấp đến mức độ nào và những dự án nào cần được phân cấp. Từ cách nhìn này, những kết quả và kinh nghiệm phân cấp trong thời gian qua cần được xem xét. Một hệ thống các tiêu chí cho việc phân cấp ODA bao gồm thời gian và chi phí thực hiện dự án, năng lực quản lý ODA và hiệu quả hoạt động cũng cần phải được xây dựng.
Thứ chín, xây dựng kế hoạch giảm dần ODA với thời gian trả nợ ngắn và gắn với điều kiện chặt chẽ. Kinh nghiệm từ các nước ASEAN và Trung Quốc cho thấy rằng lượng ODA huy động phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. ODA có khuynh hướng giảm ở các nước ASEAN cả về lượng và bình quân đầu người. Việt Nam cũng cần phải bắt đầu nghiên cứu kế hoạch và chiến lược giảm dần ODA, đặc biệt là ODA có điều kiện, đồng thời tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác như FDI. Bằng cách đó, Việt Nam không chỉ duy trì được sự gia tăng của tổng vốn đầu tư mà còn cải thiện được hiệu quả của tất cả các nguồn vốn, bao gồm cả vốn ODA.
3.3.2.3. Giải pháp tăng tốc độ giải ngân vốn ODA.
Thứ nhất, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý liên quan đến ODA. Yêu cầu tăng tốc độ giải ngân ODA là trách nhiệm của cả bên Việt Nam và cộng đồng tài trợ. Về phía Việt Nam, chính phủ cần phải đơn giản hoá văn bản pháp lý và thủ tục liên quan đến ODA. Về phía các nhà tài trợ, hài hoà và đơn giản hoá quy trình thủ tục với chính phủ Việt Nam cũng là điều cần thiết nhằm đảm bảo tiến trình thực hiện có hiệu quả. Như lời nói của Giám đốc WB Việt Nam Ajay Chhibber tại Hội nghị nhóm tư vấn năm 2007: “Một điều cũng thông thường cho cộng đồng tài trợ là cần xem xét hệ thống của Việt Nam, chứ không phải luôn luôn yêu cầu sử dụng hệ thống riêng của họ cho việc thực hiện dự án”.
Thứ hai, hài hoà thủ tục dự án. Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ cần có sự cải tiến thủ tục và phối hợp của cả hai phía.
Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt vẫn đang còn có những vướng mắc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế dẫn đến sự chậm trễ trong việc trình và phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ.
Do đó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập, khách quan. Trong đó, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt của chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian nên giảm bớt những thủ tục không thật sự cần thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài ra cần được bố trí vốn chuẩn bị đầu tư để lập trước nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cứu khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án ưu tiên được sử dụng vốn ODA đã được chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ có cam kết xem xét tài trợ.
Thứ ba, giải quyết vốn đối ứng. Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án.
Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án.
Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội dung của dự án.
Thứ tư, cải thiện chất lượng đầu vào. Để cải thiện và nâng cao tốc độ giả ngân vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần, phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa chọn các dự án phù hợp, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và trung hạn.Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của các nguồn vốn ODA.
Để tăng cường chất lượng đầu vào của các chương trình, dự án ODA công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn nữa quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên tham gia và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trọng để phát trển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan hệ hợp tác phát triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải ngân đúng tiến độ các bên cần có thông tin chính xác và tôn trọng lợi ích của nhau.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư. Giải phóng mặt bằng, tái định cư là khâu quan trọng, có ý nghĩa kinh tế , xã hội, chính trị, môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện dự án và do đó ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân vốn ODA nhưng đây cũng là khâu thường xuyên có vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.
Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư cần được coi là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch thực hiện dự án ODA, vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thân, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến luật pháp, chính sách của nhà nước, chính sách của nhà tài trợ. Trong đền bù luôn gặp tính hợp pháp của tài sản và việc xử lý vấn đề này không dễ dàng trong tình trạng xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai phổ biến như hiện nay. Đồng thời việc áp dụng chính sách tính hợp pháp của tài sản trên thực tế nhiều khi lại mâu thuẫn với chính sách đảm bảo đời sống của người bị ảnh hưởng bởi dự án sau khi thực hiện tái định cư không tồi hơn địa điểm cũ của nhà tài trợ. Để tháo gỡ vấn đề này cần phải có sự phối hợp từ nhều phía ở phía Việt Nam và nhà tài trợ cũng cần xem xét lại việc điều chỉnh các chính sách của mình cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào Việt Nam và trong mỗi dự án cụ thể, từng giai đoạn khác nhau chúng ta cần áp dụng những biện pháp cụ thể, kịp thời để ODA thật sự trở thành nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài có ý nghĩa trong phát triển kinh tế đất nước.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cho thấy rằng ODA có một vai trò quan trọng hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và trên thực tế những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện đã tập trung vào những lĩnh vực đầu tư vừa có tính xúc tác, vừa mang tác dụng trước mắt đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính từ năm 1993 đến nay tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam lên tới 22,43 tỷ USD và có xu hướng tăng đều qua các năm. Tuy nhiên, vì một số nguyên nhân khách quan và chủ quan, quá trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng có những giải pháp thiết thực để làm tăng hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này, từ đó làm tăng vị thế đất nước trong con mắt các nhà đầu tư.
Bài viết này đã đề cập và đi vào phân tích vai trò của vốn ODA đối với phát triển kinh tế Việt Nam, thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA ở Việt Nam. Tuy nhiên, do những hạn chế về khả năng phân tích, chắc chắn tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Cô và các bạn để nội dung của Tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu phục vụ Hội nghị ngành Kế hoạch và Đầu tư ngày 20/11/2009.
2. Tổng quan ODA ở Việt Nam 15 năm (1993-2008) - Tác giả Cao Viết Sinh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Tài liệu Thực trạng thu hút ODA Nhật Bản vào Việt Nam.
4. Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về việc Quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.
5. Thông tin từ website:
Chính phủ: www.chinhphu.vn;
Bộ Kế hoạch và đầu tư:
Bộ Tài chính:
Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM:
6. TS Nguyễn Ngọc Sơn, TS Trần Thị Thanh Tú; năm 2007, Nguồn tài chính trong nước và nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam.
7. TS Đinh Tuấn Hải, năm 2007; Đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vồn đầu tư ODA theo tinh thần của tuyên bố chung Paris về hiệu quả viện trợ; Báo cáo chuyên ngành.
8. Hồ Hữu Tiến; năm 2009; Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ, Đại học Đà Nẵng; Bàn về vấn đề quản lý vốn ODA ở Việt Nam.
9. Số 8867/BC – BKH; Báo cáo đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, định hướng và giải pháp năm 2010.
10. Số 290/2006/QĐ – TTg; Quyết định Phê duyệt đề án “Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006 – 2010”.
11. Định hướng thu hút và sử dung Vốn ODA của Việt Nam – TS. Lê Quốc Hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_oda_8473_9943.doc