Người ta rất ít nghi ngờ về tính hữu dụng và đáng ao ước của các hệ thống thu phí dịch vụ công ích đô thị có cơ sở rộng đang ngày một tiến triển. Việc áp dụng các loại phí dịch vụ được thiết kế thích hợp hay, một cách tổng quát hơn, việc thu hồi chi phí dịch vụ đô thị từ những người thụ hưởng, có thể đóng góp cho việc cải thiện sự phân bổ nguồn lực bên trong nội bộ và giữa các khu vực thành thị. Những chi phí như vậy nhằm mục đích giới hạn nhu cầu vềcác dịch vụ đô thị ở một mức hiệu quả và làm cho các cư dân và các công ty ở thành thị hiện tại và trong tương lai quan tâm đến chi phí mà xã hội phải gánh chịu. Hơn nữa, kinh nghiệm cho thấy, phí dịch vụ hay việc thu hồi chi phí, có thể tạo ra các khoản thu nhập đáng kể cho chính quyền các thành phố. Bởi vì các chi phí này liên quan trực tiếp với việc cung cấp và mở rộng các dịch vụ tối cần thiết, chúng là một nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo khả năng tái tạo các chương trình đầu tư đô thị.
40 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tài chính công - Thu hồi chi phí - Phí người sử dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Nieân khoùa 2005 – 2006 Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 1 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
THU HỒI CHI PHÍ: PHÍ NGƯỜI SỬ DỤNG
Dịch từ nguyn bản Margaret Y. Myers, ed., “Cost Recovery: User Fees,” in
Selected Readings in Urban Financial Resource Mobilization (Washington,
D.C.: Economic Development Institute, World Bank, 9/1986), trang 1-60.
TÓM TẮT
Người ta rất ít nghi ngờ về tính hữu dụng và đáng ao ước của các hệ thống thu phí
dịch vụ công ích đô thị có cơ sở rộng đang ngày một tiến triển. Việc áp dụng các loại
phí dịch vụ được thiết kế thích hợp hay, một cách tổng quát hơn, việc thu hồi chi phí
dịch vụ đô thị từ những người thụ hưởng, có thể đóng góp cho việc cải thiện sự phân
bổ nguồn lực bên trong nội bộ và giữa các khu vực thành thị. Những chi phí như vậy
nhằm mục đích giới hạn nhu cầu về các dịch vụ đô thị ở một mức hiệu quả và làm cho
các cư dân và các công ty ở thành thị hiện tại và trong tương lai quan tâm đến chi phí
mà xã hội phải gánh chịu. Hơn nữa, kinh nghiệm cho thấy, phí dịch vụ hay việc thu
hồi chi phí, có thể tạo ra các khoản thu nhập đáng kể cho chính quyền các thành phố.
Bởi vì các chi phí này liên quan trực tiếp với việc cung cấp và mở rộng các dịch vụ tối
cần thiết, chúng là một nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo khả năng tái tạo các
chương trình đầu tư đô thị.
Ngoài ra, phí dịch vụ có thể đóng góp vào sự tăng trưởng đô thị một cách bình đẳng
theo nhiều cách: thứ nhất, qua việc thu hồi các chi phí của dịch vụ công ích từ người
huởng lợi; công bằng theo nghĩa tính công bằng vẫn được duy trì, vì trong những
trường hợp này những lợi ích “trời cho” được giảm thiểu tối đa. Trong thực tế, những
lợi ích này thường được dành riêng cho những nhóm thu nhập cao hoặc dưới hình
thức giá trị tài sản được tăng lên hoặc bằng cách hướng các khoản đầu tư vào những
khu vực mà ở đó những nhóm có thu nhập cao hơn được hưởng lợi một cách trực tiếp
nhất. Vì vậy, phí người sử dụng cũng nhằm mục đích gia tăng tính công bằng theo
chiều dọc của hệ thống tài chính đô thị.
Phí người sử dụng không chỉ là những công cụ nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả
dịch vụ công ích; phí người sử dụng cũng có thể đóng vai trò hướng dẫn đầu tư, bởi vì
khả năng sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng đối với dịch vụ trong nhiều trường hợp
là cách duy nhất để xác định lợi ích của một dịch vụ. Việc áp dụng phí dịch vụ, hay
một cách tổng quát hơn, yêu cầu về việc thu hồi chi phí buộc các nhà hoạch định
chính sách phải xem xét trước về khả năng và sự sẵn sàng của người thụ hưởng trong
việc chi trả và thiết kế những tiêu chuẩn dịch vụ tương ứng. Trong nhiều trường hợp,
việc trợ giá quá mức cho dịch vụ trong quá khứ đã góp phần vào việc áp đặt những
tiêu chuẩn về dịch vụ đô thị cao đến mức phi thực tế.
Qui tắc phổ biến nhất mà các nhà kinh tế đề nghị cho việc hướng dẫn các quyết định
về việc định giá dịch vụ công ích là đặt giá bằng với chi phí biên tế. Việc xem xét lại
khả năng áp dụng của qui tắc định giá trên chi phí biên tế đơn giản cho thấy rằng có ít
nhất hai vấn đề - theo thứ tự - cần phải đề phòng: Thứ nhất, nhiều khía cạnh của dịch
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 2 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
vụ, bao gồm việc sử dụng, tiếp cận và định vị nên được đưa vào quá trình định giá nếu
qui tắc là nhằm phục vụ mục tiêu phân bổ nguồn lực hiệu quả. Ví dụ, phí cung cấp
nước có thể được cấu trúc nhằm bao gồm ba mục đích sau đây: người thụ hưởng với
quyền chọn sử dụng dịch vụ cấp nước theo cách kết nối vào đường ống chính của một
khu vực có thể trả tiền; (a) thuế tài sản theo khu vực cụ thể hay phí phát triển, được
thiết kế nhằm thu hồi chi phí của việc xây dựng đường ống và các chi phí vốn khác
thuộc hệ thống; (b) phí định kỳ hàng tháng nhằm chi trả cho chi phí kết nối - sự nối
kết từ đường ống chính vào từng nhà, cũng như là việc đo lường khối lượng nước tiêu
thụ và tính phí; và (c) phí sử dụng nước liên quan đến sự tiêu thụ thực tế nhằm thu hồi
chi phí biên tế của việc cung cấp nước cho người sử dụng. Thứ hai, qui tắc này cần
được chỉnh sửa để có thể xem xét đến các ngoại tác, sự biến dạng thị trường, hay
thông tin không hoàn hảo về người tiêu dùng; các mục đích quan trọng khác, bên cạnh
hiệu quả, như là khả năng tồn tại, sự công bằng và tính hợp lý; và những hạn chế về
thể chế và chính trị. Ví dụ, người ta có thể đồng thời xem xét tính hợp lý và ngoại tác
để đưa vào loại phí được gọi là “life-line” (“mức phí tối thiểu”), theo đó việc sử dụng
một khối lượng dịch vụ nhỏ có thể chỉ trả phí thấp hơn chi phí biên tế. Vì vậy, những
người tiêu dùng nhỏ có thể sử dụng dịch vụ mà không phải gánh chịu một gánh nặng
tài chính quá mức. Cùng lúc đó, thu nhập cao hơn so với trợ cấp, mà ví dụ được tạo ra
bằng cách áp dụng mức phí cao hơn chi phí biên tế hay phí nối kết đối với người tiêu
dùng lớn hơn hay giàu có hơn, đảm bảo khả năng tồn tại về mặt tài chính của hệ thống
phí. Phương pháp này đã được áp dụng thành công trong việc tài trợ cho hệ thống
cung cấp nước đô thị tại một số nước châu Mỹ La-tinh.
Mặc dù có những sự tiên liệu và điều chỉnh đối với việc sử dụng qui tắc định giá chi
phí biên tế đơn giản cũng như những khó khăn về mặt hoạt động trong việc áp dụng
qui tắc này đối với một số dịch vụ công ích, qui tắc này cung cấp cho ta điểm khởi
đầu tốt trong việc phân tích hệ thống phí; những sự cải tiến sau đó có thể được áp
dụng đối với từng dịch vụ khác nhau, có quan tâm đến nơi thực hiện dịch vụ. Một khi
một cơ cấu định giá hữu hiệu được quyết định, ta có thể khám phá ra những ý nghĩa
về tài chính và sự hợp lý của cơ cấu đó và mức độ mà cơ cấu này hoạt động ngược lại
với những tiêu chuẩn thể chế đã được xác lập. Nếu những ý nghĩa này đủ tiêu cực thì
những điều chỉnh đối với cơ cấu định giá, vẫn chú ý đến yêu cầu tối thiểu hóa chi phí
cho những điều chỉnh như vậy xét về mặt tổn thất tính hiệu quả, là cần thiết. Thường
thì những mục tiêu chính sách khác nhau có ít mâu thuẫn hơn so với ban đầu, đặc biệt
là khi có thể áp dụng các mức phí nhiều phần như đã đề cập ở trên. Thông lệ phổ biến
của việc bắt đầu phân tích về phí người sử dụng với sự chú ý đến các mục tiêu khác
thay vì mục tiêu tính hiệu quả hầu như lúc nào cũng có nghĩa là bỏ qua những xem xét
về tính hiệu quả. Kết quả là tạo ra một sự tổn thất về tính hiệu quả lớn hơn mong
muốn - một kết quả mà các nước đang phát triển, với mức thu nhập thấp, khó có thể
chịu đựng được.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 3 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
THU HỒI CHI PHÍ
Bài của David A. Grossman
Nhiều loại dịch vụ mà các thành phố cung cấp, xét về bản chất, phải sẵn sàng được
cung cấp cho phần đông dân chúng. Ví dụ, dịch vụ an toàn công cộng như phòng cháy
hay cảnh sát rõ ràng phải được cung cấp theo yêu cầu. Tuy nhiên, các dịch vụ công
ích khác, có sự tương đồng gần hơn với các hoạt động thị trường tư nhân mà ở đó
người ta có thể truy ra tất cả (hay hầu hết) lợi nhuận trực tiếp đến với một cá nhân, hộ
gia đình hay doanh nghiệp nào đó. Một ví dụ về loại hình dịch vụ này là dịch vụ cung
cấp nước; chúng ta có thể đo lường được khối lượng nước cung cấp cho bất cứ hộ gia
đình nào, hoặc qua đồng hồ nước, hay đại khái hơn, qua bản chất mà dịch vụ này
được cung cấp (ví dụ như là kích cỡ đường ống). Thường thì hai loại khác nhau của
dịch vụ công ích này được xem như “hàng hóa công cộng” và “hàng hóa cá nhân”.
Người ta thường chấp nhận rằng phần đông dân chúng nên trả cho việc sử dụng hàng
hóa công cộng thông qua hệ thống thuế nói chung. Ngược lại, dường như cách thích
hợp hơn đối với dịch vụ của loại hàng hóa cá nhân là người thụ hưởng dịch vụ phải
trả tiền cho dịch vụ đó. Trong thực tế, dĩ nhiên đôi khi rất khó rút ra sự phân biệt rõ
ràng, đặc biệt là khi một hàng hóa cá nhân thiết yếu cũng là một nhu cầu cơ bản. Đây
thậm chí cũng là trường hợp của dịch vụ cung cấp nước, khi mà việc tiếp cận một
lượng cung cấp tối thiểu phải được đảm bảo cho tất cả mọi người dân, thậm chí ngay
cả khi dân chúng quá nghèo đến nỗi không có tiền trả cho toàn bộ chi phí của việc sử
dụng nước này.
Khái niệm thu hồi chi phí áp dụng với những dịch vụ công ích của một bản chất “hàng
hóa cá nhân” mà qua đó phí có thể được áp dụng nhằm thu hồi tối thiểu một phần
quan trọng chi phí của dịch vụ. Có thể có luận cứ tích cực ủng hộ cho việc thu hồi chi
phí:
- Thu hồi chi phí có thể làm tăng tính công bằng bằng cách giúp cho việc khẳng
định rằng người tiêu dùng một dịch vụ là người trả tiền cho dịch vụ đó, tối
thiểu là ở một mức độ mà người tiêu dùng có khả năng thực hiện điều này.
- Việc thu hồi chi phí có thể làm tăng tính hiệu quả bởi vì nếu biết rằng phải trả
cho một hàng hóa công cộng khan hiếm, người tiêu dùng thường sẽ cẩn trọng
hơn trong việc sử dụng dịch vụ đó. Khi người ta chỉ có thể sản xuất những
lượng hàng hóa hay dịch vụ vừa đủ để đáp ứng nhu cầu của một phần dân
chúng, thì việc đánh thuế lên việc sử dụng hàng hóa hay dịch vụ đó là một
phương thức thực tế cho việc hạn chế sử dụng.
- Ở mức độ mà việc thu hồi toàn bộ chi phí, bao gồm cả chi phí vốn có thể đạt
được, một thành phố sẽ có thể hoàn trả lại bất cứ khoản nợ nào mà thành phố
này có thể phải gánh chịu cho việc xây dựng dịch vụ, do dó nó sẽ có vị thế tốt
để có thể vay mượn lại cho việc mở rộng hệ thống dịch vụ trong tương lai.
Theo cách này, thu hồi chi phí làm cho việc mở rộng dịch vụ công ích - lẽ ra
đã nằm ngoài khả năng tài chính của một thành phố - có thể thực hiện được.
Dịch vụ phải chịu thu hồi chi phí
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 4 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
Nhiều dịch vụ đô thị phải chịu thu hồi chi phí ít ra là về mặt lý thuyết. Trong thực tế,
mức độ mà nguyên tắc này được áp dụng thay đổi đáng kể. Các dịch vụ và hoạt động
công ích phổ biến nhất trên giác độ thu hồi chi phí toàn bộ hay một phần bao gồm:
- Cung cấp và thoát nước (xử lý nước thải).
- Nhà ở công cộng.
- Các doanh nghiệp công ích (ví dụ như lò mổ, lò thiêu…)
Ngoài ra, có nhiều dịch vụ mà việc thu hồi một phần chi phí được cho là khả thi và
thích hợp đối với một số thành phố. Những dịch vụ này gồm có:
- Giáo dục (kể cả cấp trung học cơ sở và cấp cao hơn).
- Dịch vụ y tế.
- Đường xá và hệ thống chiếu sáng đường xá.
- Thu gom và xử lý chất thải rắn.
Một cách khác đối với việc cung cấp công cộng và thu hồi chi phí theo nhiều loại hình
dịch vụ đề cập ở trên là trực tiếp cung cấp các dịch vụ đó thông qua thị trường tư
nhân. Chọn lựa này được thảo luận trong phần sau của mô-đun này dưới tiêu đề “tư
nhân hóa”.
Thu hồi chi phí có thể chiếm một phần quan trọng trong thu ngân sách địa phương,
như trong bảng 1. Trong khi tỷ lệ thu ngân sách địa phương được tài trợ thông qua thu
hồi chi phí (hay phí người sử dụng) là khá thấp ở hầu hết các thành phố, thì tỷ lệ này
lên đến 35 đến 50% tổng thu ngân sách của các thành phố Ấn Độ như Ahmedabad
hay Bombay.
Đạt được việc thu hồi chi phí
Một khi một thành phố đã quyết định rằng một dịch vụ công ích cụ thể phải chịu thu
hồi chi phí, thì các bước tiếp theo là quyết định mức thu hồi chi phí nhắm đến, ai là
người phải chi trả thanh toán chi phí và cách thức mà hệ thống chi trả vận hành. Dưới
đây là những lựa chọn.
Mức thu hồi chi phí được nhắm đến có ba dạng chính: thu hồi toàn bộ, thu hồi ít hơn
hay cao hơn mức thu hồi toàn bộ. Với những tình huống khác nhau thì bất cứ một
trong ba hình thức vừa kể đều có thể thích hợp.
Thu hồi chi phí toàn bộ tự bản thân nó có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau, với những biến dạng chính là: loại chi phí vốn cũng như là chi phí hoạt động và
duy trì nào phải chịu thu phí; tất cả chi phí quản lý và chi phí hành chánh sẽ được thu
phí hay không, bao gồm cả chi phí của đội ngũ nhân viên thành phố đã hưởng lương
từ trung ương; và phí sẽ được thu xét theo chi phí trung bình, hay chi phí biên tế hoặc
chi phí phục vụ một nơi cụ thể.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 5 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
Bảng 1 - Tỷ lệ phần trăm đóng góp của phí người sử dụng đối với việc tài trợ cho chi
tiêu của chính quyền địa phương tại một số thành phố
Thành phố (quốc gia) Năm
Phần trăm chi tiêu công
địa phương được tài trợ
bởi phí người sử dụng
Phrăng-xít-tao (Bốt-xơ-wa-na) 1972 56,1
Lu-xa-ka (Zăm-bi-a) 1972 36,9
Kit-uy (Zăm-bi-a) 1975 53,1
A-mê-đa-bát (Ấn Độ) 1970-71 41,8
Bom-bay(Ấn Độ) 1970-71 38,7
Ma-đrát(Ấn Độ) 1975-76 3,7
Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a) 1972-73 15,2
Ka-ra-chi (Pa-ki-xơ-tan) 1974-75 2,2
Xơ-un (Hàn Quốc) 1971 36,3
Ma-ni-la (Phi-líp-pin) 1970 10,0
La-Pa (Bô-li-vi-a) 1975 3,6
Ri-ô đờ Gia-nây-rô (Bra-xin) 1967 7,2
Bô-gô-ta (Cô-lôm-bi-a) 1972 48,5
Ca-li (Cô-lôm-bi-a) 1974 57,5
Các-tê-ga-ma (Cô-lôm-bi-a) 1972 42,3
King-xơ-tơn (Gia-mai-ca) 1971-72 2,7
Thành phố Mê-hi-cô (Mê-hi-cô) 1968 5,2
Va-len-xi-a (Vê-nê-zu-ê-la) 1968 13,4
Tuy-ni-dơ (Tuy-ni-di) 1972 7,1
Bình quân (không có trọng số) 19,3
Trung vị 7,2
Nguồn: Bahl và Lim (sắp xuất bản), được trích dẫn trong Linn, 1983.
- Đầu tư vốn chiếm một phần quan trọng trong chi phí của nhiều dịch vụ công
ích. Đây đặc biệt là trường hợp của dịch vụ cấp thoát nước. Nếu một thành
phố quyết định đưa chi phí vốn vào cơ cấu chi phí của nó, trong số các chọn
lựa khả dĩ có thể thực hiện là rằng chi phí vốn có nên được đưa vào theo cơ sở
hiện tại hay quá khứ (bởi vì sự thay thế tương lai đối với những cơ cấu lỗi thời
hầu như luôn luôn có phí tổn nhiều hơn đáng kể so với chi phí trong quá khứ
của chúng). Các quyết định khác cần được thực hiện có liên quan đến chi phí
vốn là lãi suất nào được sử dụng đối với những cơ cấu tài trợ nợ và rằng có
nên đưa vào chi phí khấu hao cũng như là phí trả lãi nợ vay vay hay không.
Tùy thuộc vào việc thực hiện chọn lựa nào mà mức phí có thể thay đổi rất lớn.
- Chi phí hành chánh và chi phí phụ thường không quan trọng như chi phí vốn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp chúng cũng rất quan trọng. Ví dụ, những
quyết định về việc nên phục hồi bao nhiêu cơ sở hạ tầng hỗ trợ có liên quan
đến việc phát triển xây dựng nhà ở công cộng có thể có tác động đáng kể đến
mức phí áp dụng cho các cư dân.
- Từ quan điểm của nhà kinh tế, phí dịch vụ nên được tính toán ở mức biên tế
hơn là mức trung bình nhằm xét đến sự kiện là việc mở rộng trong tương lai
của hệ thống dịch vụ sẽ phải được chi trả theo chi phí biên tế áp dụng tại thời
điểm mở rộng.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 6 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
- Một lựa chọn khác cần thực hiện là việc những người thụ hưởng mà việc phục
vụ họ đặc biệt tốn kém (ví dụ như một vài nhà trên đỉnh một ngọn đồi) có nên
được yêu cầu phải trả lại chi phí phát sinh thêm cho việc phục vụ họ hay
không hay điều này nên được áp dụng rộng khắp cho mọi người tiêu dùng.
Các thành phố có thể quyết định việc thu hồi chi phí thấp hơn chi phí toàn bộ bởi vì
người ta tin rằng một bộ phận nào đó của mọi hệ thống thuế là hàng hóa công cộng.
Ví dụ, những lợi ích y tế cộng đồng nói chung tạo ra từ việc cung cấp nước máy có
tác động đến toàn bộ cộng đồng. Ngược lại, một số dịch vụ phải chịu mức phí cao hơn
việc thu hồi chi phí toàn bộ. Một ví dụ là một bãi đậu xe công cộng tại một khu vực
đông đúc giữa trung tâm thành phố. Một nơi như vậy có thể tạo ra lợi nhuận mà có thể
giúp thành phố chi trả cho việc sửa chữa các con đường trong thành phố. Việc bán các
khoảng đất dư thừa trong một thành phố là một trường hợp khác mà ở đó việc thu hồi
lớn hơn chi phí toàn bộ có thể là một mục tiêu có giá trị.
Vấn đề nhiều người nghèo đang sống tại các thành phố các nước đang phát triển đã
làm dấy lên một cách trực tiếp nhất vấn đề người nào phải trả phí đối với dịch vụ
“hàng hóa cá nhân”. Những dịch vụ như là cung cấp nước, điện và vận tải công cộng
có tầm quan trọng lớn đối với những cư dân nghèo thành thị nhưng họ thường không
có khả năng chi trả cho toàn bộ chi phí của dịch vụ. Có ít nhất hai cách có thể xác
định vấn đề này, và hai cách này có thể được sử dụng riêng lẻ hay kết hợp.
- Đảm bảo việc cung cấp một lượng cơ bản dịch vụ với chi phí tối thiểu có thể
đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người nghèo với chi phí thấp nhất. Ví dụ,
trong hệ thống cung cấp nước, dịch vụ ống nước đứng có thể được cung cấp
thay vì là nước máy vào được dẫn trực tiếp vào từng nhà dân. Nhìn chung,
việc thu phí đối với dịch vụ ống đứng là không khả thi; vì thế, chi phí này sẽ
do thành phố (thông qua nguồn thu ngân sách chung) hay những người tiêu
dùng khác gánh chịu.
- Chi phí dịch vụ cho người tiêu dùng nghèo khó có thể được bù đắp thông qua
việc “trợ giá chéo”. Theo phương thức này, những người sử dụng giàu có hơn
phải chịu mức phí cao hơn chi phí toàn bộ nhằm làm cho việc thu phí ít hơn
đối với người nghèo trở thành khả thi. Trợ giá chéo đã được sử dụng thành
công đối với hệ thống cung cấp nước, các công trường xây dựng và dự án dịch
vụ và các dịch vụ công ích khác có nhắm đến việc thu hồi chi phí.
Hoạt động của một hệ thống thu hồi chi phí có liên quan đến các quyết định hành
chính cũng như đến cơ chế tính và thu phí sẽ được sử dụng. Hai ý kiến chính mà đã
được áp dụng là tính phí trực tiếp người tiêu dùng và một phương thức ít trực tiếp hơn
liên quan đến tính phụ phí đối với thuế tài sản.
Hệ thống thu phí trực tiếp đòi hỏi việc giải chuyển các quyết định ở mức thu hồi chi
phí và trợ giá chéo thành một loại phí hướng đến cá nhân người tiêu dùng. Việc thiết
lập hệ thống thu phí có thể là một nhiệm vụ hành chánh phức tạp, đặc biệt là trong
trường hợp một hệ thống cung cấp nước công cộng mà phải đo lường khối lượng dịch
vụ tiêu dùng (hoặc thông qua đồng hồ nước hay các tính toán dựa trên kích cỡ dịch
vụ). Hệ thống thu phí mà có thể thuyết phục người tiêu dùng chi trả một cách hiệu quả
cũng quan trọng nhưng việc thực hiện được quả không dễ dàng chút nào. Khả năng
chấm dứt dịch vụ cũng ảnh hưởng đến khả năng thu phí, mà thường cao trong trường
hợp cung cấp điện nhưng không dễ dàng như vậy đối với việc cung cấp nước. Một số
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 7 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
hình thức dịch vụ sẵn sàng hơn cho việc phí. Ví dụ, lệ phí xe buýt, phí đậu xe, và lệ
phí môn bài có thể được thu trước như là một điều kiện đảm bảo của dịch vụ.
Một cách khác mà trong một số tình huống dễ dàng hơn cho người quản lý là thu phí
đối với những dịch vụ như là cung cấp điện, khí đốt, nước, thoát nước thông qua một
mức phụ phí đối với thuế tài sản. Giả định về cơ sở của những loại phí như vậy là
rằng việc định giá tài sản phản ảnh thu nhập thương mại hay của hộ gia đình. Thu
nhập, đến lượt mình, sau đó được đảm bảo nhằm phản ảnh mức tiêu dùng dịch vụ khả
dĩ. Dĩ nhiên, để cho công bằng thì không có phụ phí nào đánh vào vùng lân cận mà
dịch vụ không được cung cấp; điều này sẽ làm phức tạp thêm cho quá trình thu phí.
Việc phụ thuộc vào phương pháp phụ phí đơn giản hóa một số khía cạnh của hệ thống
thu hồi chi phí, nhưng điều này không giúp giải quyết các khía cạnh khác. Một mặt,
nó có khuynh hướng chấp nhận gánh nặng mà bất cứ thiếu sót nào mà hệ thống thuế
tài sản chứa đựng ví dụ như là những tài sản không nằm trong danh sách, các tài sản
được định giá một cách không công bằng, việc một số chủ sở hữu tài sản không chi
trả thuế …Mặt khác, các loại phí có liên quan đến tài sản có thể trở nên bị hạn chế bởi
cùng một vấn đề giống như thuế tài sản, đặc biệt là các ảnh hưởng bóp méo của luật
kiểm soát tiền thuê. Ở mặt tích cực, ở mức độ mà ảnh hưởng của thuế tài sản địa
phương là mang tính lũy tiến trong tác động của nó đến người trả thuế, các hệ thống
thu hồi chi phí có liên quan đến thuế tài sản có thể hưởng lợi từ ảnh hưởng này.
Các vấn đề đối với việc thu hồi chi phí
Thu hồi chi phí là hợp lý toàn về nguyên tắc và, trong nhiều biến dạng khác của nó, đã
chứng tỏ cũng hợp lý không kém trong thực tiễn. Các thành phố trong nhiều nước
đang phát triển, hay các tổ chức doanh nghiệp công ích riêng biệt mà cung cấp các
dịch vụ như cung cấp điện, nước có thể tạo ra những nguồn thu đáng kể qua việc sử
dụng phí thu hồi chi phí. Mặc dù có một thực tiễn nói chung là tích cực, thách thức
trong việc cải thiện và mở rộng các phương pháp thu hồi chi phí vẫn rất lớn. Một số
các vấn đề chính yếu cản trở quá trình tiến bộ này là:
- Việc duy trì mức phí. Ngay cả khi các mức phí xấp xỉ với thu hồi chi phí toàn
bộ đã được thiết lập lúc bắt đầu thì trong nhiều trường hợp rất khó điều chỉnh
các mức phí này nhằm đưa vào nhân tố lạm phát và các nhân tố làm gia tăng
chi phí khác. Khi các mức phí thấp được thiết lập ban đầu nhằm tránh các vấn
đề chính trị, việc nâng các mức phí này lên sau này thường cực kỳ khó khăn.
Hơn nữa, các phí liên quan đến thuế tài sàn thường phải chịu cùng những vấn
đề mà đã gây phiền toái cho hệ thống thuế địa phương, bao gồm cả những vấn
đề do ảnh hưởng của việc kiểm soát tiền thuê.
- Những phức tạp về mặt hành chánh. Liên quan đến hệ thống cung cấp nước
(mục tiêu thu hồi chi phí chủ yếu ở nhiều thành phố), đôi khi việc đo lường
mức độ dịch vụ một cách chính xác là khó khăn do những vấn đề như là đồng
hồ nước không hoạt động, ăn cắp dịch vụ hay hệ thống lưu trữ yếu kém.
Người ta khó có thể thiết lập cả hai thông lệ tính phí và thu phí một cách hiệu
quả. Hơn nữa, những khó khăn chính trị nghiêm trọng thường cản trở việc
ngưng cung cấp dịch vụ cho những người không trả tiền.
- Sự phản đối chính trị. Mặc dù có những luận cứ của các nhà kinh tế về tính
hợp lý của việc thu hồi chi phí dịch vụ từ những người hưởng thụ, áp lực cộng
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 8 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
đồng nhằm duy trì các dịch vụ công ích “miễn phí” vẫn luôn dai dẳng. Nỗi bật
trong số những người luận cứ cho trường hợp này thường là những cư dân có
mức thu nhập trung bình và cao, những người có khuynh hướng là người
hưởng thụ những khối lượng dịch vụ hạn chế mà các thành phố ở các nước
đang phát triển cung cấp. Nhưng bởi vì ảnh hưởng mà họ có thể gây áp lực,
những luận cứ của họ - về cơ bản tạo ra một trường hợp trợ giá cho người giàu
được ngụy trang – có ảnh hưởng mạnh tại một số thành phố.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng
Baøi ñoïc
Margaret Y. Myers 9 Bieân dòch: Haûi Ñaêng
Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng
taùc
CHƯƠNG HAI
TÀI TRỢ CHO SỰ TĂNG TRƯỞNG NGÀNH, CÁC MỤC TIÊU
TÀI CHÍNH/PHÍ THÍCH HỢP
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CẤP THOÁT NƯỚC
Giới thiệu
2.01. Việc cung ứng đầy đủ lượng nước an toàn và các cơ sở thích hợp cho việc xử
lý chất thải của con người hiện chỉ sẵn có cho ít hơn 50% dân số thành thị và ít hơn
20% dân số nông thôn tại các nước đang phát triển, theo những ước lượng tính toán
cho báo cáo năm 1980 của Ngân hàng Thế giới có tựa đề “Cung cấp nước và xử lý
chất thải”. Số lượng người có khả năng tiếp cận được hệ thống cung cấp nước công
cộng đã gia tăng từ những năm 1970 ở mức độ cao hơn một chút so với tốc độ tăng
dân số nói chung, nhưng nhiều hệ thống hiện hữu trong cùng thời điểm đã xuống cấp
nhanh chóng về chất lượng và độ an toàn của nguồn cung cấp. Những sự thiếu hụt về
cung cấp nước và xử lý chất thải là những nhân tố chính, đôi khi góp phần vào và đôi
lúc đóng vai trò quan trọng trong tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh cao tại các nước
đang phát triển. Vì lý do đó, tác động bất lợi lên năng suất và tiềm năng phát triển con
người là rất đáng kể.
2.02. Ngoài nhu cầu ăn, uống, giặt giũ của con người thì nước sạch cũng là một yếu
tố đầu vào chính yếu trong các hoạt động sản xuất và thương mại, mà thường chiếm
10-40% lượng nước tiêu thụ tại các khu vực đô thị của các nước đang phát triển. Việc
quản lý chất thải công nghiệp là một khía cạnh quan trọng khác.
2.03. Khả năng tiếp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuhoichiphi.pdf