Mỗi mối quan hệ giữa chính phủ và giám đốc của một doanh nghiệp nhà nước, giữa chính phủ và những người quản lý tài sản nhà nước, hay giữa chính phủ và những người chủ sở hữu một công ty độc quyền tư nhân, được nhà nước điều tiết, đều có thể được xem là một hợp đồng, nghĩa là một thỏa thuận giữa chính phủ và một bên khác dựa trên những kỳvọng chung. Những văn bản hợp đồng như vậy đã được thiết lập cho một tỷ phần nhỏ các doanh nghiệp sở hữu nhà nước trên toàn thế giới, nhưng việc sử dụng những hợp đồng như vậy đang ngày càng gia tăng. Các quốc gia thường sử dụng hợp đồng cho những hoạt động phức tạp và quan trọng nhất, ví dụ như các công ty độc quyền về cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông), những nhà xuất khẩu lớn và những hoạt động có doanh thu cao (trà ở Sri Lanka, vàng ở Ghana, khách sạn ở Ai Cập). Thế mà người ta vẫn còn hiểu biết rất ít ỏi về tác dụng của những hợp đồng như vậy, điều gì làm nên sự khác biệt giữa những hợp đồng thành công với những hợp đồng thất bại, hay loại hợp đồng nào có tác dụng tốt nhất trong những tình huống nào.
9 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tài chính công - Công thức trong kinh doanh kinh tế học và chính trị học về sở hữu Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 1 Biên dịch: Kim Chi
CÔNG CHỨC TRONG KINH DOANH
KINH TẾ HỌC VÀ CHÍNH TRỊ HỌC
VỀ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC
Lập hợp đồng: Trường hợp nào có tác dụng, trường hợp nào không có tác dụng,
và lý do tại sao
Mỗi mối quan hệ giữa chính phủ và giám đốc của một doanh nghiệp nhà nước, giữa
chính phủ và những người quản lý tài sản nhà nước, hay giữa chính phủ và những
người chủ sở hữu một công ty độc quyền tư nhân, được nhà nước điều tiết, đều có thể
được xem là một hợp đồng, nghĩa là một thỏa thuận giữa chính phủ và một bên khác
dựa trên những kỳ vọng chung. Những văn bản hợp đồng như vậy đã được thiết lập
cho một tỷ phần nhỏ các doanh nghiệp sở hữu nhà nước trên toàn thế giới, nhưng việc
sử dụng những hợp đồng như vậy đang ngày càng gia tăng. Các quốc gia thường sử
dụng hợp đồng cho những hoạt động phức tạp và quan trọng nhất, ví dụ như các công
ty độc quyền về cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông), những nhà xuất khẩu lớn và
những hoạt động có doanh thu cao (trà ở Sri Lanka, vàng ở Ghana, khách sạn ở Ai
Cập). Thế mà người ta vẫn còn hiểu biết rất ít ỏi về tác dụng của những hợp đồng như
vậy, điều gì làm nên sự khác biệt giữa những hợp đồng thành công với những hợp
đồng thất bại, hay loại hợp đồng nào có tác dụng tốt nhất trong những tình huống nào.
Trong chương 3, chúng tôi tập trung vào ba loại hợp đồng:
• Hợp đồng thực hiện, xác định mối quan hệ giữa chính phủ và những người
được nhà nước thuê để quản lý một doanh nghiệp nhà nước.
• Hợp đồng quản lý, xác định mối quan hệ giữa chính phủ và một công ty tư
nhân được giao kết hợp đồng để quản lý một doanh nghiệp nhà nước.
• Hợp đồng điều tiết, xác định mối quan hệ giữa chính phủ và các chủ sở hữu
của một công ty độc quyền tư nhân được nhà nước điều tiết.
Đối với mỗi loại hợp đồng, trước tiên chúng tôi xem xét một mẫu các doanh
nghiệp để xem thử trong mỗi trường hợp, hợp đồng có cải thiện thành quả hoạt động
hay không, như phản ánh qua những chỉ báo như suất sinh lợi trên tài sản, năng suất
lao động, và tổng năng suất các yếu tố sản xuất. So sánh thành quả hoạt động trước và
sau khi thực hiện hợp đồng, chúng tôi nhận thấy rằng các hợp đồng thực hiện có tác
dụng kém nhất. Các hợp đồng quản lý có tác dụng tốt hơn, nhưng chỉ trong những tình
huống đặc biệt được mô tả dưới đây mà thôi. Các hợp đồng điều tiết có tác dụng tốt
cho những doanh nghiệp trên các thị trường độc quyền, miễn là những hợp đồng này
được thiết kế và thực hiện thỏa đáng. Nhìn chung, sự tham gia của các tác nhân tư
nhân trong việc sở hữu và quản lý càng nhiều, thì thành quả hoạt động của doanh
nghiệp càng tốt hơn.
Để am hiểu tường tận hơn sự khác biệt giữa những hợp đồng thành công và những
hợp đồng thất bại, chúng tôi phân tích cách thức từng hợp đồng xử lý ba loại vấn đề
sau đây như thế nào: thông tin bất cân xứng, thưởng phạt, và sự cam kết. Những vấn
đề về thông tin phát sinh do các tác nhân hợp đồng (một bên là chính phủ và một bên
là các nhà quản lý tư nhân hay công cộng, hay chủ sở hữu của một công ty độc quyền)
có những thông tin khác nhau; vì thế mỗi bên có thể sử dụng những thông tin mà họ sở
hữu độc quyền để cải thiện vị thế của họ bằng tổn thất của bên kia. Đồng thời, vì
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 2 Biên dịch: Kim Chi
không thể biết được các biến cố tương lai, cho nên người ta không thể thiết kế một hợp
đồng bao trùm mọi tình huống có thể phát sinh. Để loại trừ những vấn đề thông tin và
những điểm không hoàn hảo, các hợp đồng thường bao hàm những cam kết về thưởng
và phạt để khuyến khích các bên tham gia hợp đồng bộc lộ thông tin và tuân thủ các
điều khoản hợp đồng. Nhưng những cam kết thưởng phạt không thôi vẫn chưa đủ. Mỗi
bên cần tin vào cam kết của bên kia về việc thực hiện thực sự. Cũng giống như một
chuỗi dây xích gồm ba mắt xích rắn chắc, những hợp đồng bao hàm các cơ chế xử lý
vấn đề thông tin, thưởng phạt, và sự cam kết là những hợp đồng thích hợp nhất để đạt
được kết quả như mong muốn – cải thiện thành quả hoạt động của doanh nghiệp.
Bảng 5. Nghiên cứu tình huống các doanh nghiệp
Quốc gia
(loại hợp đồng)
Tên doanh nghiệp:
Tên sử dụng trong tài liệu
Thời hạn
hợp đồng
Năm hợp
đồng đầu tiên
Công ty Điện lực Ghana (ECG): Ghana
Electricity
Hàng năm 1989
Công ty Cấp thoát nước Ghana (GWSC):
Ghana Water
1989
Ghana (hợp đồng thực
hiện)
Công ty Bưu chính viễn thông Ghana
(GP&T): Ghana Telecoms
1990
Ấn Độ (bản ghi nhớ) Công ty Nhiệt điện quốc gia (NTPC): India
Electricity
Hàng năm 1987
Uỷ ban Dầu và khí thiên nhiên (ONGC):
India Oil
Danh mục
các chỉ tiêu
hàng năm
1984 Hàn Quốc (hệ thống đo
lường và đánh giá kết
quả hoạt động)
Công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO):
Korea Electricity
Cơ quan Viễn thông Hàn Quốc (KTA):
Korea Telecoms
Mexico (convenio de
rehabilitación financiera)
Comisión Federal de Electricidad (CFE):
Mexico Electricity
3 năm 1986
Philippines (hệ thống
giám sát và đánh giá kết
quả hoạt động)
Danh mục
các chỉ tiêu
hàng năm
1989
Hệ thống Cấp thoát nước đô thị (MWSS):
Philippines Water
Công ty Điện lực quốc gia (NPC):
Philippines Electricity
Senegal (kế hoạch hợp
đồng)
Société Nationale d’Electricité (SENELEC):
Seneral Electricity
3 năm 1987
Société Nationale des Télécommunications
du Sénégal (SONATEL): Senegal Telecoms
1986
Chúng tôi tóm tắt các phát hiện về từng loại hợp đồng dưới đây.
Hợp đồng thực hiện hiếm khi cải thiện các động cơ khuyến khích và có thể lợi bất
cập hại
Các hợp đồng thực hiện đã được sử dụng tại hai mươi tám quốc gia đang phát triển
vào giữa thập niên 90, phần lớn là ở châu Á và châu Phi. Phân tích của chúng tôi cho
một mẫu gồm mười hai công ty tại sáu quốc gia (liệt kê trong bảng 5) không ủng hộ
cho giả thiết là những hợp đồng này giúp cải thiện thành quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước. Như hình 8 cho thấy, chỉ có ba trong số mười hai công ty có biểu
hiện chuyển biến tốt hay gia tăng tổng năng suất các yếu tố sản xuất (TFP) sau khi
thực hiện các hợp đồng (Công ty Cấp thoát nước Ghana, Công ty Điện lực Mexico, và
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 3 Biên dịch: Kim Chi
Công ty Viễn thông Senegal), sáu công ty tiếp tục xu hướng quá khứ, trong khi ba
công ty còn lại thậm chí còn có kết quả hoạt động tệ hại hơn nhiều so với trước khi có
hợp đồng. Xu hướng của suất sinh lợi trên tài sản cũng xấu đi đối với ba công ty; các
công ty còn lại gần như không thể hiện thay đổi. Chỉ có hai công ty biểu thị một điểm
gấp khúc (tăng lên) trong xu hướng của năng suất lao động.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 4 Biên dịch: Kim Chi
Hình 8. Kết quả hoạt động trước và sau khi có hợp đồng: Tổng năng suất các yếu
tố sản xuất (lập chỉ số theo năm cơ sở)
Các hợp đồng thực hiện dẫn đến những xu hướng cải thiện của tổng năng suất các
yếu tố sản xuất tại ba trong số bảy trường hợp có sẵn số liệu. Tổng năng suất các
yếu tố sản xuất trong ba trường hợp kia có xu huớng xấu đi.
Tại sao các hợp đồng thực hiện lại ít có tác dụng đối với kết quả hoạt động đến
thế? Chúng tôi nhận thấy rằng những hợp đồng này không giúp cải thiện, mà trong
một số trường hợp thậm chí còn làm tệ hại hơn cơ cấu động cơ khuyến khích kém cỏi
của các giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Quả thật, các hợp đồng thực hiện không giải
Những doanh nghiệp nhà nước biểu thị sự chuyển biến mạnh từ xấu thành tốt, hay
sự cải thiện rõ rệt
Những doanh nghiệp nhà nước biểu thị kết quả hoạt động tệ hại hơn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 5 Biên dịch: Kim Chi
quyết được cả ba vấn đề hợp đồng. Các hợp đồng này không làm giảm lợi thế thông
tin của các giám đốc; thay vì thế, các giám đốc có thể sử dụng hiểu biết của họ về
doanh nghiệp để đàm phán những chỉ tiêu mềm mà họ dễ dàng đạt được. Tương tự,
các hợp đồng thực hiện hiếm khi bao hàm những biện pháp thưởng phạt để có thể kích
thích giám đốc và nhân viên phát huy nhiều nỗ lực hơn: ở những nơi có khen thưởng
bằng tiền, sự khen thưởng này cũng không có tác dụng vì không gắn liền với thành quả
hoạt động tốt hơn; những động cơ khuyến khích được hứa hẹn khác, như quyền tự
quản nhiều hơn, thường không được thực hiện; và những biện pháp trừng phạt vì kết
quả hoạt động kém, như sa thải hay giáng chức, hiếm khi được thực hiện. Cuối cùng,
chính phủ các nước không thể hiện sự cam kết đối với những điều khoản của hợp
đồng, thường bội ước đối với những hứa hẹn chính yếu. Điều này làm tăng động cơ
thôi thúc các giám đốc sử dụng lợi thế thông tin của họ để đàm phán những chỉ tiêu
mềm.
Từng vấn đề trên đây có thể được nhận thấy với hợp đồng thực hiện của công
ty Senegal Electricity. Hợp đồng bao gồm hai mươi hai tiêu chí đánh giá kết quả hoạt
động, nhưng không có khen thưởng nếu giám đốc đạt được những chỉ tiêu đó; ngoài
ra, các cơ quan quản lý của chính phủ không có quyền lực cưỡng chế thi hành các biện
pháp trừng phạt một cách đáng tin cậy. Cuối cùng, cho dù chính phủ hứa sẽ có hành
động để giúp doanh nghiệp có thể đạt được các chỉ tiêu, ví dụ như buộc các doanh
nghiệp nhà nước khác phải thanh toán hoá đơn tiền điện, nhưng những hứa hẹn này
thường bị nuốt lời. Công ty phải gánh chịu tình trạng năng suất giảm sút. Quả thật,
cũng giống như với một số doanh nghiệp khác trong mẫu của chúng tôi, xem ra hợp
đồng thực hiện còn làm cho hệ thống động cơ khuyến khích và kết quả hoạt động trở
nên tồi tệ hơn.
Các hợp đồng quản lý có tác dụng nhưng chỉ trong một số tình huống
Các hợp đồng quản lý không được sử dụng rộng rãi nhưng nhìn chung thành công hơn
khi được nỗ lực giao kết. Sau khi tìm hiểu trên toàn thế giới, sử dụng một định nghĩa
tương đối rộng, chúng tôi chỉ tìm thấy khoảng 200 hợp đồng quản lý: bốn mươi bốn
hợp đồng liên quan đến các khách sạn được quản lý bởi các chuỗi khách sạn quốc tế
lớn; số hợp đồng còn lại tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp và cấp nước. Phân tích
của chúng tôi về các hợp đồng quản lý đối với hai mươi công ty tại mười một quốc gia
(xem bảng 6) cho thấy rằng lợi nhuận và năng suất được cải thiện trong hai phần ba số
trường hợp, và các kết quả khá lẫn lộn đối với hầu hết những trường hợp còn lại. Chỉ
có hai trong số các hợp đồng bị xếp loại là thất bại trên cả hai phương diện lợi nhuận
và năng suất.
Đặc điểm của những hợp đồng quản lý thành công là gì? Và vì các hợp đồng
quản lý thường thành công, thế tại sao người ta không sử dụng chúng một cách thuờng
xuyên hơn? Việc phân tích cách thức giải quyết những vấn đề về thông tin, thuởng
phạt, và cam kết, thông qua các hợp đồng quản lý thành công sẽ giúp chúng ta trả lời
những câu hỏi này.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 6 Biên dịch: Kim Chi
Bảng 6. Mẫu các hợp đồng quản lý
Doanh nghiệp Quốc gia Nhà thầu Lĩnh vực hoạt động
Thành công
Manila Terminal Philippines ISTSI (trong nước) Hải cảng
Munias Sugar Kenya Booker Tate (Anh) Đường
Hino-Pak Pakistan Consortium (UAE, Nhật Bản) Lắp ráp xe ô tô, xe tải
Domestic Appliances Pakistan Al-Futtain (UAS) Lắp ráp dụng cụ điện
Guyana Sugar Corp. Guyana Booker Tate (Anh) Đường
SONEG Guinea SEEG *Guinea và Pháp) Nước
SNE Cộng hoà Trung Phi SAUR (Pháp) Khách sạn
Shepheard’s Hotel Ai Cập Helnan (Đan Mạch) Khách sạn
Cairo Sheraton Ai Cập Sheraton (Hoa Kỳ) Khách sạn
Nile Hilton Ai Cập Hilton (Hoa Kỳ) Khách sạn
Sofia Sheraton Bulgaria Sheraton (Hoa Kỳ) Khách sạn
Hotel Stadt Đức InterContinental (Hoa Kỳ) Khách sạn
Sri Lanka Plantations Sri Lanka Các nhà thầu trong nước Trà, cao su
Nằm giữa ranh giới của thành công và thất bại
Linmine Guyana Guyana Minprod (Úc) Khai thác quặng Bauxite
Mount Kenya Textiles Kenya AMSCO (Hà Lan) Dệt may
Naga Power Plant Philippines Ontario Hydro (Canada) Điện lực
State Gold Mining Co. Ghana Canada-Ghana Mining (Canada) Khai thác vàng
Light Rail (LRTA) Philippines Meralco (trong nước) Giao thông
Thất bại
Nzoia Sugar Kenya Arkel (Hoa Kỳ) Đường
Sanata Textile Limited Guyana SOE (Trung Quốc) Dệt may
Ở những nơi mà hợp đồng quản lý thành công, chính phủ đã sử dụng cơ chế
cạnh tranh để làm giảm lợi thế thông tin của giám đốc doanh nghiệp. Trong số mười
ba hợp đồng thành công, có mười hợp đồng liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước
trên những thị trường cạnh tranh; ba hợp đồng còn lại liên quan đến việc đấu thầu cạnh
tranh đối với những doanh nghiệp độc quyền (hai công ty cấp nước và một cảng
container). Những hợp đồng thành công cũng thiết lập được những biện pháp thưởng
phạt có ý nghĩa, thường là thông qua giới hạn (hay bãi bỏ) những khoản phí cố định và
liên hệ giữa phí của nhà thầu với thành quả hoạt động của công ty. Cuối cùng, những
hợp đồng thành công được thiết lập theo cách thức sao cho tạo ra sự cam kết mạnh mẽ
từ cả hai bên. Ví dụ, các hợp đồng này có thời hạn lâu hơn với khả năng gia hạn hợp
đồng và những điều khoản qui định trọng tài tranh chấp.
Tại sao các hợp đồng quản lý không được sử dụng phổ biến hơn? Chúng tôi kết
luận rằng chi phí đối với chính phủ để có được những thông tin cần thiết cho việc đàm
phán, giám sát và cưỡng chế hợp đồng quản lý là một lý do khiến cho việc sử dụng
loại hợp đồng này bị giới hạn trong các lĩnh vực khách sạn, nông nghiệp, và cấp nước.
Trong những lĩnh vực nói trên, thông tin có được một cách dễ dàng hơn, và vì thế chi
phí giao dịch hợp đồng cũng thấp hơn. Đó là những lĩnh vực có công nghệ không thay
đổi nhanh quá, và đầu ra là một sản phẩm đồng nhất, duy nhất (như với nước hay
đường); hay là những lĩnh vực mà nhà thầu tư nhân có một danh tiếng quốc tế để bảo
vệ, thị trường có tính cạnh tranh, và chất lượng dễ dàng so sánh (như với khách sạn).
Ngoài ra, trong những tình huống mà các hợp đồng quản lý có thể có tác dụng, việc tư
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 7 Biên dịch: Kim Chi
nhân hoá thường mang lại cho chính phủ lợi ích nhiều hơn (giá bán) và chi phí thấp
hơn (không cần giám sát, cưỡng chế và tái đàm phán hợp đồng).
Các hợp đồng điều tiết có tác dụng nhưng đòi hỏi phải được thiết kế cẩn thận
Gần như toàn bộ các công ty cung ứng các dịch vụ cơ sở hạ tầng đã được tư nhân hoá
đều hoạt động trên những thị trường độc quyền, nơi cần có sự điều tiết của chính phủ
để ngăn ngừa tình trạng các công ty lạm dụng thế lực độc quyền của họ. Những qui
định của nhà nước và các điều khoản loại trừ khác tạo thành một hợp đồng điều tiết,
nghĩa là một thỏa thuận - đôi khi ngầm ẩn - giữa chính phủ và những những người chủ
sở hữu công ty về các biện pháp khen thưởng và các điều kiện hoạt động của công ty.
Việc soạn thảo các hợp đồng điều tiết hữu hiệu ngày càng trở nên quan trọng hơn khi
các quốc gia đang phát triển ngày càng tư nhân hoá các công ty quốc doanh độc quyền
trước đây trong các lĩnh vực viễn thông, điện lực, cấp nước, đường sắt, đường bộ,
cảng, và dầu khí. Doanh số bán các doanh nghiệp của chính phủ trong những lĩnh vực
này tăng vọt từ 431 triệu đô-la vào năm 1988 lên đến gần 6,5 tỷ đô-la đô-la năm 1992.
Bảng 7. Mẫu các quốc gia với sự tham gia của khu vực tư nhân trong ngành viễn
thông
Quốc gia Năm cải
cách về qui
định điều
tiếta
Phần trăm
của khu vực
tư nhânb
GNP thực
trên đầu
người theo
đô-la, 1981
Tỷ lệ tăng
trưởng
GDPc
Số năm chờ
đợi có điện
thoạid
Mật độ lắp
đặt điện
thoại năm
1981e
Argentina 1990 100 3442 1,4 4,1 7,7
Chile 1987 100 1995 4,5 5,7 3,4
Jamaica 1988 100 1242 1,9 9,0 2,6
Malaysia 1987 25 2096 6,3 1,6 3,6
Mexico 1990 100 2510 1,4 4,9 4,4
Philippines 1986 100 669 1,2 14,7 0,9
Venezuela 1991 40 3647 2,5 2,5 5,6
a Những cuộc cải cách trước đó được thực hiện ở Chile (1978, 1982) và Jamaica (1982); một số cuộc cải
cách hơn nữa để đẩy mạnh quá trình tư nhân hoá đã được thực hiện ở Malaysia vào năm 1990. Với
ngoai lệ là Malaysia và Philippines, nơi ngành viễn thông đã thuộc sở hữu tư nhân trong nhiều thập
niên, năm cải cách cũng là năm tư nhân hoá.
b Tính đến năm 1993.
c Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực bình quân giai đoạn 1981-92.
d Tính đến năm 1987 đối với Argentina và 1986 đối với Jamaica; được tính là tỷ số giữa số hồ sơ nằm
trong danh sách chờ đợi và số máy điện thoại lắp đặt tăng thêm trong ba năm cuối.
e Số máy điện thoại lắp đặt trên 100 người.
Nguồn: Galal và Nauriyal (1995).
Để đánh giá những hợp đồng này, chúng tôi phân tích kinh nghiệm tại bảy
quốc gia đang phát triển, nơi có mạng lưới điện thoại cơ bản thuộc sở hữu tư nhân và
được chính phủ điều tiết (bảng 7). Cho dù kích cỡ mẫu nhỏ và không ngẫu nhiên,
nhưng sự đa dạng hoá của mẫu trên phương diện phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế, sự phát triển viễn thông ban đầu, nhịp độ và thời điểm cải cách các qui định
điều tiết, và mức độ loại trừ các doanh nghiệp nhà nước, giúp chúng tôi phân tích được
những khía cạnh khác nhau của việc thiết kế hợp đồng điều tiết trong nhiều tình
huống. Ngoại trừ ở Philippines, nơi công ty viễn thông đã thuộc sở hữu tư nhân trong
nhiều thập niên, và ở Mexico, nơi việc tư nhân hoá diễn ra sớm hơn, thời điểm cải
cách các qui định cũng trùng hợp với thời điểm tư nhân hoá. Chúng tôi nhận thấy rằng
các hợp đồng điều tiết thường cải thiện thành quả hoạt động, dẫn đến sự mở rộng
mạng lưới nhanh chóng hơn, năng suất lao động gia tăng, và sinh lợi từ giá trị mạng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 8 Biên dịch: Kim Chi
cao hơn. Tuy nhiên, không phải mọi hợp đồng điều tiết đều thành công (hình 9). Chile,
nơi có kết quả tích cực, và Philippines, nơi có kết quả tiêu cực, là hai trường hợp đối
nghịch nhau.
Hình 9. Cải cách viễn thông: Tác động đối với việc mở rộng mạng lưới, năng suất
lao động, và sinh lợi
Growth rate of main lines: Tỷ lệ tăng trưởng đường dây chính
Prereform: Trước cải cách
Postreform: Sau cải cách
Network expansion: Mở rộng mạng lưới
Labor productivity: Năng suất lao động
Lines per worker: Số đường dây(số máy lắp đặt) trên một người lao động
Percentage change: Phần trăm thay đổi
Return on Net Worth: Sinh lợi trên giá trị mạng
Các hợp đồng điều tiết
thường dẫn đến sự mở
rộng mạng lưới nhanh
chóng hơn, cải thiện
năng suất lao động, và
sinh lợi trên giá trị
mạng cao hơn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Tài chính công
Bài đọc
Công chức trong kinh doanh
Kinh tế học và chính trị học về sở hữu nhà nước
Ngân hàng Thế giới 9 Biên dịch: Kim Chi
a Lợi nhuận trước thuế trên giá trị mạng thời kỳ sau cải cách cho năm 1990.
b Số liệu sau cải cách là giá trị ước lượng dựa trên dự báo của Ngân hàng Thế giới về doanh thu và chi
phí của TELMEX.
Chú thích: Các giai đoạn trước cải cách / sau cải cách mà chúng tôi trình bày số liệu là Argentina: 1981-
90/1991-92; Chile: 1981-86/1987-92; Jamaica: 1981-87/1988-92; Malaysia: 1981-86/1987-92; Mexico:
1981-86/1987-92; Mexico: 1981-89/1990-92; Philippines: 1980-85/1986-92; và Venezuela: 1981-
90/1991-93.
Nguồn: Hill và Abdala (1995); Galal(1994); Spiller và Sampson (1993): Ngân hàng Thế giới
(1993,1993); Wellenius và những người khác (1994); Exfahani (1994); Clemente (1994); International
Telecommunications Union (các năm khác nhau, 1994).
Những quốc gia có hợp đồng điều tiết thành công đã giải quyết được cả ba vấn
đề về hợp đồng: thông tin, thưởng phạt và cam kết. Ở Chile, chính phủ giảm tình trạng
bất lợi thế về thông tin bằng cách bán quyền khai thác dịch vụ viễn thông địa phương
thông qua đấu thầu cạnh tranh và thông qua bơm thêm những yếu tố cải cách khác vào
hợp đồng bất kỳ khi nào có thể. Các qui định về giá được thiết kế để ban thưởng cho
thành quả tốt và trừng phạt khi không có cải thiện. Việc định giá tiêu chuẩn của Chile
được thực hiện dựa trên suất sinh lợi công bằng đối với một công ty giả định hoạt động
hiệu quả, và cứ mỗi năm năm lại được xem xét lại một lần. Điều này khuyến khích
công ty cải thiện hiệu quả, vì công ty gặt hái được lợi ích cho đến khi giá được điều
chỉnh, ở điểm đó, tiền tiết kiệm được chuyển sang cho người tiêu dùng. Cuối cùng,
chính phủ Chile chứng tỏ sự cam kết của họ tuân theo hợp đồng đối với các nhà đầu tư
theo nhiều cách; ví dụ, cơ quan lập pháp thông qua những bộ luật xác định thủ tục
trọng tài và kháng cáo tranh chấp. Ngược lại, chính phủ Philippines không sử dụng cơ
chế cạnh tranh hay các cơ chế khác để giảm tình trạng bất lợi thế về thông tin. Chính
phủ Philippines cũng không sử dụng cơ cấu định giá để ban thưởng cho sự cải thiện
thành quả hoạt động và trừng phạt khi không đạt được cải thiện; thay vì thế, chính phủ
để cho cơ quan điều tiết định giá một cách tuỳ ý, chỉ đặt ra một mức trần đối với sinh
lợi của đơn vị điều hành hoạt động. Cuối cùng, do bản thân hợp đồng điều tiết không
rõ ràng, cho nên chính phủ Philippines không thể chứng tỏ sự cam kết của mình. Cho
dù có một thủ tục công khai để doanh nghiệp kháng cáo các quyết định thuế quan và
qui định điều tiết lên toà án tối cao, nhưng vì bản thân các qui tắc không rõ ràng, cho
nên cơ sở kháng cáo và các kết quả cũng không chắc chắn. Môi trường qui định yếu
kém ở Philippines đã gây tổn thất cho người tiêu dùng: cho dù công ty điện thoại
Philippines đạt điểm tệ hại xét theo việc mở rộng mạng lưới và năng suất lao động,
nhưng công ty lại tận hưởng suất sinh lợi cao nhất trên giá trị mạng trong mẫu điều tra
của chúng tôi.
Bằng chứng chung từ mẫu điều tra của chúng tôi cho thấy rằng việc loại trừ các
doanh nghiệp nhà nước trong những thị trường phi cạnh tranh, cùng với những qui
định điều tiết thích hợp, thường dẫn đến hiệu quả cao hơn, dịch vụ mở rộng, và cải
thiện phúc lợi chung. Nhưng chỉ có một phần nhỏ các quốc gia có các công ty độc
quyền lớn trong những lĩnh vực phi cạnh tranh ra sức xây dựng các hợp đồng điều tiết
mà thôi. Quả thật, như chúng ta đã thấy, bất chấp lợi ích kinh tế to lớn tiềm tàng của
việc loại trừ các doanh nghiệp nhà nước và các loại cải cách doanh nghiệp nhà nước
khác, tương đối ít có quốc gia nào có một nỗ lực cương quyết và có hệ thống để cải
cách doanh nghiệp nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- congchuctrongkinhdoanh.pdf