Đến nay, việc đánh giá tác động của hoạt động chiêu thị nói chung và đặc biệt là quảng cáo, khuyến mãi nói riêng đến các thành phần của tài sản thương hiệu trong ngành siêu thị còn khá hạn chế. Từ dữ liệu khảo sát 173 khách hàng tại Huế, cho thấy: (i) có 05 thành phần tác động tích cực đến tài sản thương hiệu siêu thị tổng thể với thứ tự tầm quan trọng giảm dần là: (1) chất lượng cảm nhận về hàng hóa, (2) chất lượng cảm nhận về môi trường dịch vụ, (3) lòng trung thành thương hiệu, (4) liên tưởng thương hiệu, (5) nhận biết thương hiệu; (ii) khuyến mãi có tác động tích cực đến nhận biết thương hiệu và liên tưởng thương hiệu, còn quảng cáo có tác động tích cực đến liên tưởng thương hiệu
10 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 532 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tác động của quảng cáo, khuyến mãi đến tài sản thương hiệu Trường hợp ngành siêu thị hàng tiêu dùng tại Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oo và cộng sự (2000) [6],
Ramos và Franco (2005) [19], Amaretta và
Hendriana (2011) [25]. Điều này được giải
thích là do ở Huế hiện nay chỉ có hai siêu thị
hàng tiêu dùng là Co.opmart và Big C, cùng ở
khu vực trung tâm thành phố nên sự nhận biết
thương hiệu của người dân đối với chúng là rất
cao. Vì vậy, mục đích thực hiện quảng cáo của
hai siêu thị này tại thị trường Huế chủ yếu là
cung cấp các thông tin về hàng hóa và các
chương trình khuyến mãi. Hay nói cách khác,
quảng cáo được thực hiện nhằm hỗ trợ khuyến
mãi hình thành các liên tưởng có lợi cho siêu thị
một cách nhanh và mạnh mẽ hơn.
6. Hàm ý cho nhà quản trị
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, một số hàm
ý cho các nhà quản lý siêu thị hàng tiêu dùng tại
Huế được rút ra như sau:
Đối với nhận biết thương hiệu: Do ở Huế
hiện nay chỉ có hai siêu thị hàng tiêu dùng nên
mức độ nhận biết của người dân là rất cao, tuy
nhiên trong tâm trí khách hàng thì các đặc điểm
thể hiện sự khác biệt giữa hai siêu thị còn mờ
nhạt. Do đó, trong tương lai, mỗi siêu thị nên
chú trọng hơn đến bản sắc riêng trong quá trình
xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu, qua
đó góp phần nâng cao sự nhận biết của khách
hàng theo chiều sâu.
Đối với liên tưởng thương hiệu: Các hoạt
động quảng cáo, khuyến mãi cần thống nhất
trong việc cùng tạo ra các liên tưởng tích cực
cho siêu thị. Về quảng cáo, nên tăng cường giới
thiệu các thông tin về vệ sinh an toàn thực
phẩm, các hoạt động hướng đến cộng đồng của
siêu thị. Về khuyến mãi, do đặc điểm của người
Huế nói riêng và người Việt Nam nói chung đặc
biệt quan tâm tới giá cả khi mua sắm các mặt
hàng tiêu dùng, nên siêu thị cần chú trọng nhiều
vào hình thức khuyến mãi tiền tệ. Cuối cùng,
các siêu thị nên có chiến lược quảng cáo và
khuyến mãi mạnh mẽ cho nhóm sản phẩm do
siêu thị sở hữu, qua đó từng bước củng cố sức
mạnh thương hiệu siêu thị.
H.T.A. Thư / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 49-58 57
Đối với chất lượng cảm nhận: Đây là yếu tố
tác động mạnh nhất đến tài sản thương hiệu
tổng thể. Khách hàng ở Huế cảm nhận chất
lượng của siêu thị theo hai khía cạnh là hàng
hóa và môi trường dịch vụ. Đối với hàng hóa,
siêu thị cần tăng cường liên kết dọc với các nhà
cung ứng để đảm bảo chất lượng hàng hóa,
đồng thời tiết kiệm chi phí thu mua; chú trọng
hơn đến sự phong phú của các mặt hàng đặc sản
địa phương; thường xuyên đánh giá nhân viên
về kỹ năng nghiệp vụ cũng như thái độ giao tiếp
với khách hàng... Đối với môi trường dịch vụ,
phòng vệ sinh, bãi giữ xe của siêu thị phải luôn
luôn sạch sẽ; ngoài ra, cần đặt các thùng thư
góp ý bên ngoài siêu thị để thu nhận được các ý
kiến của khách hàng, là cơ sở giúp nâng cao
chất lượng cảm nhận.
Đối với lòng trung thành thương hiệu:
Trước tiên cần không ngừng duy trì và nâng cao
chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, siêu thị nên dành
một khoản ngân sách để chăm sóc nhóm khách
hàng trung thành bằng các hoạt động như: tri ân
khách hàng, tôn vinh khách hàng thân thiết...
7. Hạn chế của nghiên cứu
Bên cạnh những đóng góp trên, nghiên cứu
vẫn còn tồn tại một số hạn chế để từ đó gợi ý
các hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai
như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu tiếp theo nên tiếp tục
kiểm định lại mô hình nghiên cứu đề xuất với
kích thước mẫu lớn hơn bằng phương pháp
chọn mẫu xác suất.
Thứ hai, nghiên cứu tiếp theo nên tiến hành
làm rõ mối quan hệ giữa các thành phần của tài
sản thương hiệu bằng việc ứng dụng mô hình
cấu trúc tuyến tính (SEM).
Thứ ba, nghiên cứu này chưa chỉ ra được
mối quan hệ giữa tài sản thương hiệu tổng thể
với sự yêu thích thương hiệu. Bởi vì, tài sản
thương hiệu tổng thể có tác động đến sự yêu
thích thương hiệu của khách hàng [26].
Tài liệu tham khảo
[1] K.H. Kim, K.S. Kim, D.Y. Kim, J.H. Kim, &
S.H. Kang, “Brand equity in hospital
marketing”, Journal of Business Research 61
(2008), 75.
[2] Rajagopal, “Growing shopping malls and
behaviour of urban shoppers”, Journal of
Retail & Leisure Property 8 (2009) 99.
[3] Lê Tấn Bửu và Bùi Thanh Tráng, “Hoạt động tại
kênh bán lẻ hiện đại ở Thành phố Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Phát triển Kinh tế 265 (2012) 11.
[4] D.A. Aaker, Managing Brand Equity:
Capitalizing on the Value of a Brand Name,
Free Press, New York, 1991.
[5] E. Atilgan, S.Aksoy & S.Akinci,
“Determinants of the brand equity: A
vertification approach in the beverage industry
in Turkey”, Marketing Intelligence &
Planning 23 (2005) 237.
[6] B. Yoo, N. Donthu & S. Lee, “An Examination of
Selected Marketing Mix Elements and Brand
Equity”, Journal of the Academy of Marketing
Science 28 (2000) 197.
[7] J.R. Rossiter & L. Percy, Advertising and
Promotion Management, McGraw-Hill, New
York, 1987.
[8] Keller, K.L., “Conceptualizing, measuring and
managing customer-based brand equity”,
Journal of Marketing, 57 (1993) 1.
[9] D.A. Aaker, Building strong brand, Free
Press, New York, 1996.
[10] Hoàng Thị Phương Thảo, Hoàng Trọng, Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, “Phát triển sự đo lường
tài sản thương hiệu trong thị trường dịch vụ”,
B2007-09-35, Trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, 2010.
[11] Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang,
“Nghiên cứu các thành phần của giá trị thương
hiệu và đo lường chúng trong thị trường hàng
tiêu dùng tại Việt Nam”, B2002-22- 33,
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh, 2002.
[12] A. Musekiwa, D. Chiguvi, & H. Hogo, “Customer
based retail brand equity (RBE) dimensions effect
on retail brand equity for OK supermarket in
Bindura”, International Journal of Business and
Management 8 (2013) 45.
[13] X. Tong & J.M. Hawley, “Measuring
customer-based brand equity: Empirical
evidence from the sportswear market in
China”, Journal of Product and Brand
Management 18 (2009) 262.
[14] D.A. Garvin, “Quality on the Line”, Harvard
Business Review 61 (1983) 65.
[15] V.A. Zeithaml, “Consumer Perceptions of
Price, Quality, and Value: A Means-End
H.T.A. Thư / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, Số 4 (2016) 49-58
58
Model and Synthesis of Evidence”, Journal of
Marketing 52 (1988) 2.
[16] R.L. Oliver, “Whence consumer loyalty”,
Journal of Marketing 63 (1999) 33.
[17] A. Chaudhuri & B.M. Holbrook, “The chain
of effects from brand trust and brand affects to
brand performance: The role of brand
loyalty”, Journal of Marketing 65 (2001) 81.
[18] K.L. Keller, Strategic Brand Management:
Building, Measuring and Managing Brand Equity,
Prentice Hall, Upper Saddle River, 1998.
[19] A.F. Ramos & M.J. Franco, “The impact of
marketing communication and price
promotionon on brand equity”, Journal of
Brand Management 12 (2005) 431.
[20] Lê Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng, “Ảnh hưởng
của quảng cáo, quan hệ công chúng và khuyến
mãi đến các thành phần giá trị thương hiệu:
Nghiên cứu thực nghiệm trong ngành nước
giải khát”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển 208
(2014) 64.
[21] Trương Bá Thanh và Trần Trung Vinh, “Ảnh
hưởng của quảng cáo và khuyến mãi đến giá
trị thương hiệu: Trường hợp khách hàng là
thuê bao di động trả trước tại thành phố Đà
Nẵng, Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & Phát
triển 209 (2014) 112.
[22] T.R. Umar, N.K. Mat, F.A. Tahir & J.M. Alekam,
“The practicality and application of Aaker’s
customer based brand equity model in the Negerian
Banking sector”, American Journal of Economics -
Special Issue (2012) 149.
[23] A.N. Ruswidyo & H. Hudrasyah, “Validating
the instrument for measuring brand equity in
Indonesian Fuel Retail Brands”, 2nd
International Conference on Business,
Economics, Management and Behavioral
Sciences, Bali (Indonesia), 2012.
[24] J. Nunnally & I.H. Bernstein, Psychometric
Theory, 3rd ed., McGraw-Hill, New York, 1994.
[25] M. Amaretta & E. Hendriana, “The Effect of
Marketing communications and Price
promotion to Brand Equity”, The 2nd
International Research Symposium in Service
Management, Yogyakarta, Indonesia, 2011.
[26] H. Moradi & A. Zarei, “The impact of brand
equity on purchase intention and brand
preference - The moderating effects of country
of origin image”, Australian Journal of Basic
and Applied Sciences 5 (2011), 539.
The Impact of Advertising and Promotion on Brand Equity
The Case of the FMCG Supermarket Industry in Hue
Hoang Thi Anh Thu
Faculty of Hospitality and Tourism, Hue University, No. 45 Nhat Le, Thuan Thanh Ward, Hue City
Abstract: Until now, assessment of the impact of promotion, especially advertising and promotion
of supermarket brand equity, has been fairly limited. A survey of 173 clients in Hue indicates that:
(i) There are five elements that have a positive effect on overall supermarket brand equity, ranked in
order of decreasing importance, specifically: (1) perceived quality of goods, (2) perceived quality of
service environment, (3) brand loyalty, (4) brand associations, and (5) brand awareness; (ii) Sales
promotion has a positive impact on brand awareness and brand associations, while advertising has a
positive impact on brand associations only.
Keywords: Supermarket brand equity, advertisement, sales promotion.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_quang_cao_khuyen_mai_den_tai_san_thuong_hieu_tr.pdf