Khi phân tích nền kinh tế nói chung để đi tới quyết định đầu
tư vào TTCK, nhất thiết phải xem xét đến lãi suất, yếu tố cơ
bản quyết định việc đầu tư. Bên cạnh đó, yếu tố lạm phát
cũng đóng vai trò không kém vì nó dẫn đến sự khác nhau
giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tác động của lãi suất và lạm phát đến giá chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác động của lãi suất và lạm phát
đến giá chứng khoán
Khi phân tích nền kinh tế nói chung để đi tới quyết định đầu
tư vào TTCK, nhất thiết phải xem xét đến lãi suất, yếu tố cơ
bản quyết định việc đầu tư. Bên cạnh đó, yếu tố lạm phát
cũng đóng vai trò không kém vì nó dẫn đến sự khác nhau
giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực.
Lãi suất hiểu đơn giản là cái giá mà người đi vay phải trả cho
người có tiền cho vay.
Lạm phát là sự mất đi sức mua hay giá trị nội tại của một loại bản
tệ (ở đây là đồng Việt Nam). Lãi suất thực của tiền tiết kiệm - hiệu
số giữa lãi suất danh nghĩa và mức lạm phát - trở nên giá trị âm.
Hơn nữa, sự thay đổi không mong đợi của tỷ lệ lạm phát sẽ gây
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch, ngăn cản sự
tăng trưởng và đổi mới doanh nghiệp.
Do lãi suất là yếu tố cơ bản quyết định việc đầu tư, nhà đầu tư
cần nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa lãi suất và giá chứng khoán:
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu: đây là mối quan hệ
trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại
của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng
tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái
phiếu càng nhỏ. Vì vậy, khi lãi suất cao, giá trái phiếu thấp có thể
là một cơ hội tốt để mua vào trái phiếu.
Khi kinh tế phát triển mà không có lạm phát lớn thì trái phiếu dài
hạn là đối thủ cạnh tranh trực tiếp số một của cổ phiếu. Lãi suất
cao thu hút dân chúng đầu tư vào trái phiếu, kể cả tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn vì đó là những bến đậu an toàn cho đồng vốn. Ở
mức lãi suất thấp, tiền tiết kiệm được đầu tư vào cổ phiếu nhiều
hơn, tính thanh khoản tăng cao làm TTCK phát triển. Lạm phát
thuần túy (lạm phát ngầm) không nguy hiểm cho TTCK vì tiền
mua cổ phiếu thực chất là đầu tư vào hiện vật.
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu: đây là mối quan hệ
không trực tiếp và không hoàn toàn diễn ra theo một chiều. Lý do
ở chỗ, dòng tiền thu nhập của cổ phiếu không cố định như của
trái phiếu, mà chúng có thể thay đổi cùng với lãi suất và mức thay
đổi này có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn thay đổi của lãi suất.
- Lãi suất tăng - giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: xảy ra khi giá
hàng hóa bán ra của các công ty có thể tăng, dẫn đến thu nhập
của công ty tăng lên cùng với lạm phát do chi phí đầu vào tăng.
Do vậy, giá cổ phiếu trong trường hợp này có thể giữ ổn định vì
lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu nhập tăng bù đắp được cho
nhau.
- Lãi suất tăng - giá cổ phiếu giảm: xảy ra khi các dòng thu nhập
tương lai của công ty tăng không nhiều hoặc thậm chí giảm, vì
trước đó công ty phải huy động vốn với lãi suất cao, đến khi hàng
hóa được sản xuất và bán ra thì lại gặp phải sự cạnh tranh gay
gắt, trong khi sức mua lại có hạn, thu nhập của công ty giảm sút,
công ty không có khả năng tăng giá hàng hóa để bù lại mức lạm
phát. Khi lãi suất giảm thì cũng có thể xảy ra các khả năng tương
tự.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ
phiếu thường là quan hệ ngược chiều, nhất là trong giai đoạn
ngắn hạn, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng.
Nếu chỉ xét trong mối tương quan giữa thị trường cổ phiếu và trái
phiếu thì trên thực tế, thông thường quan hệ giữa lãi suất và giá
cổ phiếu là mối quan hệ ngược chiều. Điều này có thể lý giải như
sau: khi dự đoán lãi suất thị trường tăng, tức là giá trái phiếu sẽ
giảm, thì người đầu tư có xu hướng chuyển từ cổ phiếu sang
mua trái phiếu và làm cho giá cổ phiếu giảm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_lai_suat_va_lam_phat_den_gia_chung_khoan.pdf