Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nên tài nguyên nước
tương đối dồi dào nhưng 2/3 lượng nước trên lại bắt nguồn từ các nước láng giềng ở
phía thượng lưu các sông. Thêm vào đó do tình trạng phân bố rất không đều theo
không gian và biến động mạnh theo thời gian nên nguồn nước của Việt Nam vẫn bị
xếp vào loại thấp trong khu vưc Đông Nam á với chỉ số lượng nước tính theo đầu
người một năm là 4170 m
3
/ người so với mức trung bình của khu vực ĐNA là 4900
m3/người. Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2360 sông có chiều dài lớn
hơn 10 km, trong đó nhiều sông thuộc loại vừa và lớn, với tổng lượng nước là 835 tỷ
m
3
nước, nhưng trong 6-7 tháng của mùa khô dòng chảy mùa cạn của các sông chỉ
chiếm từ 15 đến 30 % lượng dòng chảy năm. Vì vậy tình trạng thiếu nước trong mùa
khô thường xảy ra hàng năm tại nhiều khu vực và lưu vực sông, đòi hỏi xây dựng
nhiều các công trình để điều tiết nguồn nước đáp ứng nhu cầu sử dụng nước ngày
càng tăng của con người. Qua nhiều năm phát triển Việt Nam đã có một hệ thống
công trình khai thác sử dụng nguồn nước rộng khắp trên tất cả các lưu vực sông, bao
gồm các loại đập, hồ chứa nước, cống và trạm bơm tưối và tiêu, các công trình phòng
chống lũ lụt như đê, kè, mỏ hàn cung cấp cho các mục tiêu tưới, tiêu, thuỷ điện, cung
cấp nước sinh hoạt và công nghiệp, phòng chống lũ lụt. Các hồ chứa và đập dâng lớn ở
Việt Nam như bảng sau.
10 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 795 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tác động của khai thác sử dụng nguồn nước đến biến đổi dòng chảy sông ngòi ở Việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lưu vực sông Ba đã bị suy
giảm khá mạnh chủ yếu là do không còn những điều kiện nguồn nước để duy trì và
phát triển một cách bình thường. Sự suy thoái nguồn nước của sông và hệ sinh thái khu
vực này có thể thấy rất rõ bằng các quan sát thông thường. Hiện nay thượng lưu đập
khoảng 30 km đang xây dựng hồ chứa thuỷ điện sông Ba hạ. Mâu thuẫn dùng nước
giữa phát điện, tưới và bảo vệ môi trường hạ lưu sẽ nảy sinh và sẽ gay gắt nếu trong
vận hành phát điện của hồ sông Ba hạ vẫn theo chế độ phủ đỉnh không quan tâm tới
đảm bảo ổn định nguồn nước tưới của đập Đồng Cam. Trường hợp xem xét vận hành
hợp lý các lợi ích phát điện, tưới, phòng lũ, bảo vệ hệ sinh thái ở hạ du thì công trình
thuỷ điện sông Ba hạ sẽ là một hồ điều tiết tốt cho đập Đồng Cam và cho môi trường
hạ lưu nhất là điều kiện môi ntrường cho phát triển kinh tế xã hội khu vực thị xã Tuy
Hoà.
Tác động của các đập dâng nhỏ
Đập dâng nhỏ là hình thức lấy nước rất phổ biến ở trung và thượng lưu các sông
vùng VBMT và Tây Nguyên, cùng với các hồ chứa nhỏ, chúng tạo thành hệ thống
phân bố trên khắp các nhánh suối và nhánh sông tạo thành chuỗi các đập dâng. Nói
chung việc sử dụng quá nhiều các đập dâng nhỏ theo dạng bậc thang trên cùng một
nhánh sông suối ở vùng VBMT hiện nay đã làm cạn kiệt dòng chảy cơ bản của nhiều
sông suối và sông nhánh, tác động này luỹ tích lại cũng làm suy giảm và cạn kiệt dòng
chảy ở khu vực hạ lưu sông.
c. Các nguyên nhân khác
Sự biến đổi dòng chảy sông ngòi ở Việt Nam ngoài do ảnh hưởng của các công trình
khai thác nguồn nước như nêu trên còn do những nguyên nhân khác nữa, trong đó có
tình trạng suy thoái bề mặt lưu vực thượng nguồn hậu quả của những tồn tại và yếu
8
kém trong quản lý tổng hợp lưu vực sông. Đó cũng là thực tế đang diễn ra trên tất cả
các lưu vực sông vùng VBMT như sông Trà Khúc, sông Kon Hà Thanh, sông Ba,..
Sông Hà Thanh- một sông nhỏ thuộc tỉnh Bình Định- là một trong những lưu
vực sông điển hình nguồn nước bị cạn kiệt nghiêm trọng do suy thoái của lưu vực
thượng nguồn, nhất là suy thoái của thảm phủ thực vật trong vài thập kỷ gần đây.
Hiện tại đoạn sông hạ lưu sông Hà Thanh từ Cầu Diêu Trì ra tới biển gần như đã bị
khô cạn hẳn nguồn nước trong các tháng mùa cạn. Vì thế lượng nước cho tưới của
vùng hạ lưu sông Hà Thanh và cả nguồn nước cho sinh hoạt của người dân trong nhiều
năm qua cũng phải chuyển từ lưu vực sông Kone sang thông qua vận hành của đập
Thạnh Hoà. Theo điều tra cho thấy nhiều đoạn sông ở hạ lưu trong nửa đầu thế kỷ 20
để qua sông người dân phải dùng thuyền nhưng nay trong mùa cạn người dân có thể
lội qua được. Suy thoái bề mặt lưu vực thượng lưu sông Trà Khúc do mất rừng trong
mấy chục năm gần đây cũng đã khiến cho chế độ thuỷ văn của sông biến đổi khác hơn
nhiều so với các thời gian trước. Dòng chảy mùa cạn giảm và lũ cũng tập trung nhanh
hơn trước đây rất nhiều. Qua điều tra tại trạm thuỷ văn Sơn Giang thượng lưu của sông
Trà Khúc các nhân viên thuỷ văn tại trạm cho biết hiện nay thời gian tập trung nước lũ
của lưu vực trạm đo chỉ còn bằng một nửa so với 30 năm trước đây.. Dòng chảy mùa
cạn giảm nhỏ đã càng làm tăng sự cạn kiệt nước ở hạ lưu sông của khu vực này. Vùng
hạ lưu sông Trà Khúc từ thị xã Quảng Ngãi ra đến biển hiện nay trong mùa cạn còn rất
ít nước, các bãi và cồn cát nổi lên ngày càng nhiều đã làm thu hẹp dòng chảy trong
mùa cạn rất đáng kể. Nguồn nước đến vùng hạ lưu sông bị giảm sút nhanh chóng đã
không còn đủ khả năng pha loãng nên đã làm gia tăng khá mạnh tình trạng ô nhiễm
nước khu vực này. Mỗi khi nước thải nhà máy đường Quảng Ngãi xả ra sông là nước
sông bị ô nhiễm nặng làm cá chết nỏi lên trên mặt nước. Tình trạng cạn kiệt như trên
đã ảnh hưởng đáng kể đến nước dùng cho sinh hoạt khu vực hạ lưu, làm xấu cảnh
quan và khó khăn cho phát triển du lịch, giao thông thuỷ,..
3. Những vấn đề đặt ra liên quan đến sự suy giảm dòng chảy hạ lưu các sông ở
Việt Nam hiện nay
Sự biến đổi dòng chảy theo hướng tiêu cực là một thực tế đang diễn ra với
những mức độ khác nhau trên các dòng sông của Việt Nam hiện nay. Tình trạng này
gây nên các tác động xấu đến môi trường và hệ sinh thái nước như là:
- Làm gia tăng nguy cơ suy thoái và cạn kiệt nguồn nước tại hạ lưu môt số lưu
vực sông, như là hạ lưu một số sông vùng VBMT, sông Đồng Nai,..từ đó gây khó khăn
cho sử dụng nước và phát triển bền vững kinh tế xã hội một số tỉnh, vùng nhất định.
- Làm suy giảm lượng nước cho hệ sinh thái cũng như duy trì dòng chảy môi
trường tại một số nơi trên lưu vực sông như là cùng hạ lưu và cửa sông. Từ đó làm tổn
thương và suy thoái các hệ sinh thái nước cũng như suy giảm giá trị môi trường và sức
khoẻ của dòng sông.
9
Xem xét nguyên nhân sâu xa, các biến đổi dòng chảy của sông có tính tiêu cực
như nêu trên là do các tồn tại trong quy hoạch và quản lý nguồn nước, quản lý bảo vệ
môi trường lưu vực trong các thời gian vừa qua mà chưa được xem xét và tháo gỡ. Để
từng bước khắc phục tình trạng trên, những vấn đề sau đây cần đặc biệt quan tâm :
(1). Xem xét và xây dựng các giải pháp biện pháp, chương trình cho việc khắc
phục dần các tồn tại trong quy hoạch và quản lý vận hành các công trình khai thác sử
dụng nguồn nước đã được xây dựng nhưng đã và đang gây nên những biến đổi xấu đối
với dòng chảy của sông.
(2). Nghiên cứu và xây dựng các nguyên tắc phân chia nguồn nước cho các
ngành dùng nước trên các lưu vực sông làm cơ sở cho thực thi hiệu quả việc cấp phép
khai thác và sử dụng nguồn nước cũng như thực thi quyền dùng nước trên các lưu vực
sông đáp ứng yêu cầu hiệu quả, công bằng và không làm suy thoái và cạn kiệt nguồn
nước.
(3). Nghiên cứu về nhu cầu nước cho hệ sinh thái, ngưỡng khai thác nguồn
nước và xây dựng phương pháp tính toán dòng chảy môi trường phù hợp cho ứng dụng
đối với các lưu vực sông của Việt Nam, cải tiến thể chế và chính sách để đưa các kết
quả này vào trong quy hoạch và quản lý tài nguyên nước.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Văn Thắng, Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tổng hợp tài
nguyên nước lưu vực sông Ba. Báo cáo đề tài NCKH cấp Bộ, Hà nội 2004.
Nguyễn Văn Thắng, Đánh giá ảnh hưởng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện đến suy
thoái dòng chảy hạ lưu sông Ba, sông Trà Khúc, Báo cáo chuyên đề thuộc đề tài
NCKH cấp Bộ “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và phương pháp tính toán ngưỡng khai
thác nguồn nước và dòng chảy môi trường, ứng dụng cho lưu vực sông Ba và sông Trà
Khúc”, Hà Nội 2004.
Ngô Đình Tuấn, Nguyễn Văn Thắng & nnk, Nghiên cứu cân bằng nước phục vụ phát
triển dân sinh kinh tế vùng Ven biển Miền Trung Báo cáo đề tài NCKH, KC-12-03, Hà
Nội 1994.
Cục Quản lý tài nguyên nước. Đánh giá nguồn nước mặt lưu vực sông Hồng- Thái
Bình trong mùa cạn năm 2003-2004. Báo cáo Dự án, Hà Nội 2004.
Bruce Fitzerald, Sustainable management of river flows and ewater extractions in
Vietnam- a review of international spproriate management rules, Jan 2005.
10
IMPACT OF WATER RESOURCE EXPLOITATION
ON RIVER FLOW CHANGES IN VIETNAM
Dr. Nguyen Van Thang, Water Resource University
Abstracts
Water resource exploitation activities, especially dam / reservoir construction and operation
actions have been rapidly increasing during a half of recent century in Vietnam that meet
water requirement for national social and economic development. However, these activities
have also gave several negative impacts to river flow change, especially water resource
degradation and depletion in some river basins as well as in some river downstream sections.
This report presents assessments of these current situations, as well as environmental
consequences and then to give some ideals on what are main problems have to solve and
especially mention in the next future time.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7_nguyen_van_thang_ok_1366.pdf