Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng hạ lưu cuối cùng của lưu vực sông Mekong trước
khi chảy ra biến. Dựa vào định nghĩa về đất ngập nước theo Công ước Ramsar (1971), ĐBSCL
được xem là vùng đất ngập nước lớn nhất Việt Nam xấp xỉ 4 triệu ha diện tích. Vùng này là nơi
có tính đa dạng sinh học phong phú. Đồng bằng có khoảng 280,000 ha rừng có thể phân làm 2
nhóm theo phân lọại sinh thái rừng đất ngập nước của Tổ chức Lương Nông (FAO, 1994): đất
ngập nước rừng tràm và đất ngập nước rừng sát ven biển. Toàn khu vực có 11 khu đất ngập nước
tự nhiên cần được bảo tồn. Các khu đất ngập nước này đang bị nguy cơ đe doạ bởi các yếu tố đe
doạ hệ sinh thái đất ngập nước bao gồm việc tháo nước hay san lấp các khu vực đất ngập nước
của con người, thay đổi các điều kiện thuỷ văn trong khu vực đất ngập nước, bị thoái hoá dần do
các ô nhiễm không có nguồn và do sự xâm chiếm của các sinh vật ngoại lai. Hiện nay, quần thể
thực vật đất ngập nước còn bị đe doạ bởi các ảnh hưởng của vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu và
sự dâng lên của nước biển. Sự hình thành các công trình trên hệ thống sông Mekong ở thượng
nguồn như đập nước – hồ chứa của các nhà máy thủy điện, các khu công nghiệp, các khu dân cư
tập trung ở dọc theo bờ sông làm mất dần diện tích và chất lượng sinh học ở các khu đất ngập
nước và rừng ngập nước khiến sự đa dạng sinh học của các thực vật vùng đất này bị đe dọa suy
giảm.
8 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tác động của biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học trong các khu đất ngập nước và bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 1
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÊN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC
TRONG CÁC KHU ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Impacts of Climate Change to the Biodiversity
in the Wetlands and Natural Conservation Areas of the Mekong River Delta)
Lê Anh Tuấn
Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, trường Đại học Cần Thơ
E-mail: latuan@ctu.edu.vn
Tóm tắt
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng hạ lưu cuối cùng của lưu vực sông Mekong trước
khi chảy ra biến. Dựa vào định nghĩa về đất ngập nước theo Công ước Ramsar (1971), ĐBSCL
được xem là vùng đất ngập nước lớn nhất Việt Nam xấp xỉ 4 triệu ha diện tích. Vùng này là nơi
có tính đa dạng sinh học phong phú. Đồng bằng có khoảng 280,000 ha rừng có thể phân làm 2
nhóm theo phân lọại sinh thái rừng đất ngập nước của Tổ chức Lương Nông (FAO, 1994): đất
ngập nước rừng tràm và đất ngập nước rừng sát ven biển. Toàn khu vực có 11 khu đất ngập nước
tự nhiên cần được bảo tồn. Các khu đất ngập nước này đang bị nguy cơ đe doạ bởi các yếu tố đe
doạ hệ sinh thái đất ngập nước bao gồm việc tháo nước hay san lấp các khu vực đất ngập nước
của con người, thay đổi các điều kiện thuỷ văn trong khu vực đất ngập nước, bị thoái hoá dần do
các ô nhiễm không có nguồn và do sự xâm chiếm của các sinh vật ngoại lai. Hiện nay, quần thể
thực vật đất ngập nước còn bị đe doạ bởi các ảnh hưởng của vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu và
sự dâng lên của nước biển. Sự hình thành các công trình trên hệ thống sông Mekong ở thượng
nguồn như đập nước – hồ chứa của các nhà máy thủy điện, các khu công nghiệp, các khu dân cư
tập trung ở dọc theo bờ sông làm mất dần diện tích và chất lượng sinh học ở các khu đất ngập
nước và rừng ngập nước khiến sự đa dạng sinh học của các thực vật vùng đất này bị đe dọa suy
giảm.
Bài báo cáo này khái quát các nguy cơ tiềm năng đe dọa tính đa dạng sinh học ở trong các khu
đất ngập nước và bản tồn thiên nhiên ở vùng ĐBSCL do các tác động của hiện tượng biến đổi
khí hậu và nước biển dâng cũng như các hệ thống công trình ở thượng nguồn khu vực. Cuối cùng
là các đề xuất về chính sách ứng phó nhằm giảm thiểu các nguy cơ và bảo vệ các hệ sinh thái
quý giá của vùng này.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, Đa dạng sinh học, Đất ngập nước, Bảo tồn thiên nhiên.
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
1. BỐI CẢNH KHU VỰC
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạ lưu cuối cùng của sông Mekong trước khi đổ ra biển
Đông và vịnh Thái Lan. Đồng bằng nằm trọn vẹn trong khu vực Châu Á gió mùa, khí hậu nóng
và ẩm. Đất của vùng ĐBSCL hình thành chủ yếu là do sự bồi tụ phù sa sông Mekong với diện
tích tự nhiên rộng trên 4 triệu hecta. Toàn đồng bằng có hơn 2,1 ha là đất canh tác, chủ yếu là
canh tác lúa và nuôi trồng thủy sản. Dân số vùng đồng bằng là hơn 18,6 triệu người (2009) sống
tập trung dọc theo các nguồn nước như vùng ven sông Hậu và sông Tiền, vùng trũng tứ giác
Long Xuyên – Hà Tiên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng ven biển và vùng lõm bán đảo Cà Mau.
Mỗi năm, từ tháng 5 đến tháng 10, vùng ĐBSCL nhận được từ 1.800 – 2.200 mm lượng mưa rơi.
Kết hợp giữa lũ trên sông chính, lượng nước tràn từ biên giới Campuchea, mưa tại chỗ và ảnh
hưởng của thủy triều biển Đông và vịnh Thái Lan khiến nhiều nơi vùng ĐBSCL bị ngập nước,
dao động trong khoảng 1,2 – 1,9 triệu ha. Dọc theo 600 km vùng ven biển, thủy triều đã đẩy
nước mặn vào làm khoảng 500.000 ha đất bị nhiễm mặn. Ngoài ra, vùng ĐBSCL còn có 2 triệu
ha đất nhiễm phèn. Có thể nói, gần như toàn bộ ĐBSCL là một vùng đất ngập nước lớn nhất Việt
Nam (Tuan và Wyseure, 2007), trong đó nhiều kiểu hình đất ngập nước rất đa dạng khác nhau.
Nếu so sánh với tổng diện tích đất ngập nước ở Việt Nam, ước lượng vào khoảng 5.810.000
hecta (Dực, 1998; Scott, 1989), thì diện tích đất ngập nước ở ĐBSCL chiếm từ 65 -70% diện tích
đất ngập nước toàn quốc. Hình 1 là bản đồ các khu đất rừng ngập nước ở ĐBSCL, trên bản đồ có
ghi tên 11 vùng đất ngập nước cần được bảo tồn theo tổ chức Birdlife International (1999), chi
tiết ở Bảng 1.
Hình 1: Bản đồ đất ngập nước rừng ở ĐBSCL (Nhân, 1997)
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 3
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
Bảng 1: Môi trường sống của 10 khu đất ngập nước ưu tiên bảo tồn (Birdlife International, 1999)
Kiểu môi
trường sống
Diện tích các vùng đất ngập nước bảo tồn (ha)
Tổng Bãi
Bồi
Đất
Mũi
Lung
Ngọc
Hoàng
Vồ
Dơi
U Minh
Thượng
Hà
Tiên
Trà
Sư
Tỉnh
Đội
Tràm
Chim
Láng
Sen
Vùng trồng
đước 2.344 3.077 5.421
Vùng đước
tái sinh 748 1.134 1.882
Vùng đước
lâu năm 771 711
Bãi bùn 1.504 1.050 2.554
Đầm lầy
dừa nước 646 720 519 1.366
Vùng định cư
và canh nông 283 486 1.022 2.012 12.140 2.101 47 154 557 2.225 519
Vùng đầm lầy
mở 222 727 1.019 90 20 520 23 21.027
Đồng cỏ 1.721 8.509 85 379 3.609 2.621
Đồng cỏ xen
tràm 429 1.872 1.606 71 71 510 955 14.303
Tràm trồng 1.040 5.500 2.309 3.188 568 581 2.099 970 5.514
Tràm trưởng
thành 881 4.123 62 5.066 16.255
Tổng (ha) 5.525 7.238 2.713 10.992 22.918 14.388 861 1.644 7.740 3.280 77.299
ĐBSCL có 280.000 ha rừng có thể phân làm 2 nhóm theo sinh thái rừng đất ngập nước (FAO,
1994): đất ngập nước rừng tràm và đất ngập nước rừng sát ven biển. Vùng ĐBSCL có khoảng 22
khu vực đất rừng ngập nước tập trung (cả nước ngọt và nước mặn) có giá trị cao trong hệ sinh
thái khu vực. Các khu rừng ngập nước là nơi lưu trữ carbon, giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ nguồn
nước, điều hòa khí hậu và cung cấp dưỡng chất cho hệ sinh thái. Trong các khu rừng ngập mặn,
thống kê có 38/46 loài cây có giá trị kinh tế, phổ biến là các loài mắm trắng, đước, bần trắng, bần
chua, vẹt tách, dà quánh, dà vôi, giá, cóc vàng, dừa nước. Các vùng này là nơi cư trú cho nhiều
loài cá và động vật thủy sinh ven biển. Tại các khu rừng tràm nội địa, có thể thống kê có đến 77
loài cây tràm hiện diện. Sự gia tăng dân số, ước tính mức tăng 2,3% tạo nên một áp lực lên hệ
sinh thái nhiệt đới và tài nguyên khu vực. Suốt 2 thập niên vừa qua, nhiều khu rừng ngập mặn đã
bị tàn phá để dành chỗ cho việc nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm, các loài cá và nghêu
sò. Nhìn chung, các vùng đất ngập nước quan trọng đang bị đe dọa do khai thác thiếu tái tạo và
quản lý yếm kém. Một nghiên cứu ước tính cứ mỗi hecta đất rừng ngập mặn bị tàn phá có thể
gây tổn thất chừng 0,7 tấn cá vùng ven biển hằng năm (Hang and An, 1999).
2. XU THẾ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nhiều nghiên cứu và phân tích khoa học trong các năm qua cho thấy khí hậu ở vùng ĐBSCL
đang có những biểu hiện thay đồi trong quá khứ đện tại hiện tại và sẽ tiếp tục thay đổi trong
tương lai. Vùng ĐBSCL được xác nhận là nơi chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 4
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
nước biển dâng (IPCC, 2001, 2007). Cán cân tài nguyên nước ở vùng ĐBSCL sẽ có những thay
đổi có ý nghĩa trong tương lai (ADB, 1994; MONRE, 2003). Hanh và Furukawa (2007) đã chỉ ra
các bằng chứng cho thấy mực nước biển trung bình đo được tại Vũng Tàu (Biển Đông) đã gia
tăng 25 cm trong 20 năm qua; sự dâng lên nước biển trong khu vực cũng gây nên hiện tượng sạt
lở ven biển. Quan sát cũng cho thấy hiện tượng sạt lở ven biển xảy ra suốt 60 km dọc theo khu
vực Gành Hào. Rủi ro ở ĐBSCL, bao gồm cả hạn hán và lũ lụt, sẽ gia tăng với các trận mưa có
cường độ cao và các ngày hạn kéo dài (Peter và Greet, 2008). Dựa vào kết quả phân tích và chi
tiết hóa qua mô hình PRECIS, Supparkorn (2008) đã cảnh báo hạn hán sẽ nặng nề hơn ở các
vùng ven biển Việt Nam trong mùa khô. Điều này đồng hành với sự gia tăng xâm nhập mặn vào
vùng ven biển. Tuan and Supparkorn (2009), qua sự hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí
hậu – Đại học Cần Thơ (Việt Nam) và Trung tâm START vùng Đông Nam Á, Đại học
Chulalongkorn (Thái Lan) cho thấy so với số liệu khí hậu nền của thập niên 1980, sang thập niên
2030, nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-35°C lên 35-37°C; lượng
mưa đầu vụ Hè Thu (15/4 - 15/5) sẽ giảm chừng 10-20% và biên ngập lũ vào tháng 9 – tháng 10
có xu thế mở rộng về phía bán đảo Cà Mau. Áp thấp nhiệt đới và bão có khuynh hướng gia tăng
vào cuối năm và số trận bão lốc đổ bộ trực tiếp vào vùng ven biển ĐBSCL sẽ có xu thế gia tăng.
Bảng 2 cho thấy xu thế các yếu tố khí hậu xuất hiện trong tương lai ở ĐBSCL.
Bảng 2: Xu thế thay đổi khí hậu và các thiên tai khác ở ĐBSCL trong 3 thập kỷ sắp tới
Yếu tố khi hậu Xu thế Khu vực bị tác động chủ yếu
Nhiệt độ max, min, trung bình mùa khô Ò An Giang, Đồng Tháp, Long An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang
Số ngày nắng nóng trên 35°C mùa khô Ò Các vùng giáp biên giới với Cambodia, vùng Tây sông Hậu
Lượng mưa đầu mùa (tháng 5, 6, 7) Ô Toàn đồng bằng SCL
Lượng mưa cuối mùa (tháng 8, 9, 10) Ò Các vùng ven biển ĐBSCL
Lốc xoáy – gió lớn – sét Ò Các vùng ven biển, hải đảo ĐBSCL
Mưa lớn bất thường (> 100 mm/ngày) Ò Các vùng ven biển bán đảo Cà Mau, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu
Áp thấp nhiệt đới và bão ven biển Ò Các vùng ven biển bán đảo Cà Mau, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu
Lũ lụt (diện tích ngập và số ngày ngập) Ò
Vùng Tứ giác Long Xuyên – Hà
Tiên, vùng Đồng Tháp mười, vùng
giữa sông Tiền và sông Hậu
Nước biển dâng - Xâm nhập mặn Ò Các tỉnh ven biển
Sạt lở Ò Các tỉnh ven biển, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu
Tác động của triều cường Ò Toàn đồng bằng
Sự thay đổi mực nước ngầm Ô Toàn đồng bằng
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 5
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
3. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÊN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC KHU
ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
Đất ngập nước có nhiều chức năng quan trọng trong cân bằng nguồn nước, kiểm soát lũ lụt, bổ
sung nguồn nước ngầm, xử lý nước thải, bảo tồn sự đa dạng sinh học và cung ứng các điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển rừng. Sự hiện hữu các vùng đất ngập nước có ý nghĩa tích cực về mặt
xã hội - văn hóa và nhiều cơ hội cho các nghiên cứu và giáo dục môi trường sinh thái (Tuấn et.al,
2009). Các vùng bảo tồn đất ngập nước tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long có tính đa dạng
sinh học cao nhưng rất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố thời tiết cực đoan và khí hậu
thay đổi. Sự dâng mực nước trong tương lai làm cho các nguồn dinh dưỡng và đặc tính sinh –
hóa – lý của dòng chảy thay đổi cũng sự hiện tượng ngập thay đổi sẽ là mối đe dọa mới cho các
hệ sinh thái khu vực. Một số các tác động này lên sự tổn thương về đa dạng sinh học các vùng
đất ngập nước có thể phỏng đoán như phân tích ở Bảng 3.
Bảng 3: Một số tác động do biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học vùng đất ngập nước
Xu thế biến đổi
khi hâu
Tác động lên
đặc điểm tự nhiên
Các tổn thương về đa dạng sinh học
đất ngập nước tự nhiên
Nhiệt độ
tăng cao
• Khô hạn
• Thiếu nước ngọt
• Bốc hơi cao
• Nước ngầm sụt giảm
• Phèn xuất hiện
• Nhiễm mặn cao hơn
¾ Cây khô và chết nhiều hơn
¾ Nguy cơ cháy rừng lớn
¾ Sự tăng trưởng thực vật chậm lại
¾ Nguồn cá giảm sút
¾ Muỗi, sâu bệnh, chuột gia tăng số lượng
¾ Nguồn lương thực bị sút giảm
Lượng mưa
phân bố bất
thường
• Thiếu mưa đầu vụ
• Tăng mưa cuối vụ
• Mưa lớn bất thường
• Ngập úng cục bộ
¾ Chu kỳ sinh học bị thay đổi
¾ Ảnh hưởng sự ra hoa và kết trái của thực vật
¾ Cây con bị hư hại
¾ Dòng chảy thay đổi
¾ Nguồn lương thực bị sút giảm
Nước biển dâng
• Xâm nhập mặn sâu hơn
• Thu hẹp diện tích đất
• Xâm thực – xói lở mạnh
• Triều cường lớn hơn
¾ Xáo trộn hệ sinh thái
¾ Nhiều loài động và thực vật nước lợ và
nước ngọt có thể bị chết
¾ Một số vùng đất rừng sát bị hủy diệt
¾ Nguồn lương thực bị sút giảm
Bão - lốc xoáy
• Tàn phá vùng ven biển
• Đẩy nước mặn vào sâu
• Ngập úng cục bộ
• Ô nhiễm sau bão tăng
¾ Rừng bị tàn phá, gãy đổ
¾ Các vườn chim bị hư hại và giảm sút
¾ Một số động vật rừng bị tiêu diệt
¾ Giảm chất lượng đất và nước
Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác sẽ tác động không chỉ ở khu vực
ĐBSCL mà còn ảnh hưởng lên toàn bộ lưu vực sông Mekong làm tình hình thêm nghiêm trọng.
Do nhu cầu phát triển kinh tế, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và sức ép dân số, khiến
các nước ở thượng nguồn sông Mekong sẽ quyết tâm đẩy mạnh việc khai thác nguồn nước sông
Mekong. Các đập thủy điện, công trình chuyển nước sông cho các vùng khô hạn, sự hình thành
các khu công nghiệp, khu dân cư dọc theo 2 bờ sông sẽ làm tình hình thêm nghiêm trọng. Hệ quả
là dòng chảy sông Mekong sẽ thất thường hơn, mùa khô càng ít nước và mùa lũ sẽ nặng nền hơn,
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 6
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
lượng phù sa tự nhiên sẽ bị giữ lại ở các hồ chứa khiến đất đai vùng đồng bằng sẽ ít màu mỡ hơn,
kết quả bồi tụ vùng bán đảo Cà Mau sẽ giới hạn lại và nguồn dinh dưỡng cho hệ thực và động
vật sẽ nghèo nàn hơn. Các đập thủy điện sẽ làm nguồn cá giảm sút nghiêm trọng và thu hẹp các
vùng dự trữ sinh quyển cũng như các khu bản tồn đất ngập nước tự nhiên. Các khu rừng ngập
mặn ở Bán đảo Cà Mau, các khu rừng tràm U Minh, Trà Sư, Tam Nông, các vùng đồng cỏ ở
Kiên Giang, Đồng Tháp bị đe dọa cháy, tàn phá và thu hẹp diện tích khiến khả năng tích giữ
carbon giảm sút khiến tình hình gia tăng hiệu ứng nhà kính toàn cầu thêm tồi tệ. Khả năng ngăn
sóng biển sẽ hạn chế khi các khu rừng ngập mặn bị tàn phá,
Sự giảm sút chất lượng môi trường, tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học khiến cư dân
vùng ĐBSCL vốn nghèo lại càng khốn khổ hơn. Dự báo hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, thời tiết cực đoan sẽ làm thu hẹp nguồn sống dựa vào tự nhiên của cư dân sẽ tạo ra hiện
tượng di dân cơ học từ các vùng nông thôn lên đô thị gia tăng. Hệ quả là quy hoạch có nguy cơ
bị phá vỡ, ô nhiễm và tệ nạn xã hội gia tăng khó kiểm soát hơn. Một bộ phận di dân không thích
nghi cuộc sống đô thị sẽ quay trở lại vùng ven biển, vùng rừng, vùng đất ngập nước để tiếp tục
tàn phá các nguồn tài nguyên còn sót lại. Quá trình này có thể sơ đồ hóa như hình 2.
Hình 2: Mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu – sinh thái – tài nguyên – di dân
(Nguồn: Tuấn, 2010)
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 7
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
4. ĐỀ XUẤT CÁC CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ
Việc ứng phó với biến đổi khí hậu không dễ dàng, tốn kém và phải có sự nổ lực tất các lĩnh vực
trong một thời gian dài. Các vùng bảo tồn tự nhiên, các khu rừng nhiệt đới và vùng đất ngập
nước có vai trò rất lớn trong việc lưu trữ lượng carbon, giảm thiểu ô nhiễm, lọc nước và bảo vệ
tính đa dạng sinh học nhưng các vùng này cũng rất nhạy cảm với sự thay đổi tự nhiên và nhân
tạo. Hiện nay, việc nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu lên sự bảo tồn đa dạng sinh học
chưa nhiều và chưa sâu. Do tầm quan trọng của vấn đề, cần phải có các chính sách ứng phó ở
cấp vĩ mô để điều chỉnh các quy hoạch trong quá khứ trước khi tình hình trở nên nghiêm trọng
và khó khăn hơn. Dưới đây là một số đề xuất:
o Quốc hội cần tiến đến hình thành một bộ Luật về Biến đổi Khí hậu hoặc bổ sung tác động
của biến đổi khí hậu vào các điều lệ trong Luật Đa dạng Sinh học (2008), Bảo vệ Môi
trường (2005), Luật Tài nguyên Nước (1998), Luật Luật Bảo vệ và phát triển rừng
(1991), và các bộ luật có liên quan khác.
o Bộ Tài nguyên và Môi trường phải kết hợp với các địa phương tiến hành một loạt quy
hoạch phát triển bền vững đất ngập nước có tính đến các kịch bản của biến đổi khí hậu.
o Các Ban Chỉ đạo khu vực cần phối hợp với Đài Khí tượng – Thủy văn Khu vực thực hiện
các quy trình phối hợp theo dõi, phân tích và cảnh báo thiên tai liên vùng.
o Các Ủy ban Chính quyền cấp Tỉnh nên thành lập các Ban Chỉ đạo Ứng phó với Biến đổi
Khí hậu cấp Tỉnh và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
o Các Ban ngành khác nhau xây dựng Kế hoạch Hành động Thích nghi với Biến đổi Khí
hậu.
o Các Viên nghiên cứu và Trường học tiếp tục các đề tài nghiên cứu, chạy mô hình mô
phỏng và xây dựng chương trình nâng cao năng lực và giáo dục tuyên truyền về biến đổi
khí hậu xuống cấp cộng đồng. Hình thành mạng lưới trao đổi thông tin về biến đổi khí
hậu.
o Huy động sự ủng hộ và liên kết nghiên cứu với các Tổ chức Chính phủ và Phi chính phủ
về Biến đổi khí hậu.
o Các địa phương giới thiệu các mô hình giảm nhẹ và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Ứng phó với biến đổi khí hậu vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài. Người dân vùng
ĐBSCL đang chuyển dần từ quan điểm “Sống chung với lũ” sang quan điểm mở rộng hơn “Sống
chung với biến đổi khí hậu”. Việc quản lý bền vững hệ sinh thái độc đáo và tính đa dạng sinh học
quý gia của lưu vực sông Mekong đang tạo một sự quan tâm lớn không chỉ trong cộng đồng các
nhà khoa học trong nước mà còn lôi kéo sự chú ý đến nhiều tổ chức quốc tế vì tầm quan trọng
của lưu vực sông Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng. Hơn lúc nào hết, cần có một sự liên
kết giữa chính quyền, các nhà khoa học, các doanh nghiệp và cộng đồng cư dân trong việc ứng
phó với biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ xảy ra trong khu vực mà chúng at không thể né tránh
được.
Lê Anh Tuấn
Tháng 5/2010
Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 8
“Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo
tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ADB (Asian Development Bank), 1994. Climate Change in Asia: Vietnam Country Report, p.27.
BirdLife Interantional Vietnam Programme. 1999. The Conservation of Key Wetlands Sites in
the Mekong Delta. Conservation Report, N° 12, Hanoi
Dực, L.D. 1998. Báo cáo tổng quan về đất ngập nước Việt Nam. Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường, Hà Nội.
FAO (Food and Agriculture Organization), 1994. Mangrove forestry guidelines, FAO, Rome,
Italy.
IPCC, 2001. Climate Change 2001: The Scientific Basis. Cambridge University Press,
Cambridge, United Kingdom and New York, NY, USA, p. 881.
IPCC, 2007. Climate change 2007: Impacts, adaptation, and vulnerability. Cambridge
University Press, Cambridge, United Kingdom, p. 1000.
MONRE (Ministry of Natural Resources and Environment), 2003. Vietnam Initial National
Communication under the United Nations Framework Convention on Climate Change
(Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi
Khí hậu). Hanoi, Vietnam.
Peter, C. and Greet, R., 2008. Climate Change & Human Development in Vietnam: A case
study for the Human Development Report 2007/2008. Oxfam and UNDP.
Nhan, N.V., 1997. Wetland mapping in the Mekong Delta and Tram Chim area using
Geographical Information Systems (GIS). Proceedings of a workshop on balancing
economic development with environmental conservation, Safford, R.J., D. V. Ni, E.
Maltby and V. T. Xuan (eds.), RHIER, London University, UK. 1997:87-93pp.
Hang, T.T.T. and An, N.T.N., 1999. An economic Analysis of the Can Gio Mangrove Scheme
in Ho Chi Minh City. In: Economy & Environment Case Studies in Vietnam, EEPSEA,
Singapore, 205-221.
Hạnh, P.T.T and Furukawa, M., 2007. Impact of sea level rise on coastal zone of Vietnam.
Bull. Fac. Sci., Uni. Ryukyus, 84:45-59
Tuan, L.A. and Guido W., 2007. Action Plan for the Multi-level Conservation of Forest
Wetlands in the Mekong River Delta, Vietnam. International Congress on Development,
Environment and Natural Resources: Multi-level and Multi-scale Sustainability.
Cochabamba, Bolivia.
Tuan, L.A. and Suppakorn, C., 2009. Climate change in the Mekong River Delta and key
concerns on future climate threats. Paper submitted to DRAGON Asia Summit, Seam
Riep, Cambodia.
Tuấn, L.A., Việt, L.H., và Guido, W., 2009. Đất ngập nước kiến tạo. Nxb. Nông nghiệp, TP.
HCM.
Tuấn, L.A., 2010. Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên tính đa dạng sinh học
và xu thế di dân vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Bảo tồn các
giá trị dự trữ sinh quyển và hỗ trợ cư dân vùng ven biển tỉnh Cà Mau trước biến đổi khí
hậu”, UBND Tỉnh Cà Mau, tháng 4/2010, trang 79-85.
Scott, D. A. 1989. A directory of Asian wetland, IUCN, Cambridge, UK.
Suppakorn, C., 2003. Information for Sustainable Development in Light of Climate Change in
Mekong River Basin, Proceedings of “Regional Conference on Digital GMS”, AIT,
Bangkok, Thailand, p.108-115.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- leanhtuan_diendanbdkh_ddsh_thaocamvien_22may2010_5568.pdf