Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay

Có thể nói rằng, nếu không tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị -xã hội, không

thể nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của các thiết chế

xã hội hiện đại.

Trong thực tế đời sống chính trị -xã hội ở nước ta, thời gian qua có một số tổ chức

xã hội -nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị -xã hội -nghề nghiệp.

Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị nước ta mới chỉ đề cập tới

hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết chế chính trị và chính trị -xã

hội gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể

quần chúng chứ chưa nghiên cứu hệ thống chính trị -xã hội với ý nghĩa là một hệ

thống rộng lớn hơn, trong đó không chỉ có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội mà còn có cả một số tổ chức chính trị -xã hội -nghề nghiệp và các tổ chức

xã hội khác

pdf13 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay 1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị - xã hội Có thể nói rằng, nếu không tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị - xã hội, không thể nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của các thiết chế xã hội hiện đại. Trong thực tế đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, thời gian qua có một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị nước ta mới chỉ đề cập tới hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết chế chính trị và chính trị - xã hội gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng chứ chưa nghiên cứu hệ thống chính trị - xã hội với ý nghĩa là một hệ thống rộng lớn hơn, trong đó không chỉ có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội mà còn có cả một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, quyền lực chính trị trong điều kiện hiện nay không chỉ thể hiện vai trò của các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội mà nó còn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các thiết chế xã hội. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu tố kinh tế - xã hội đến kiến trúc thượng tầng chính trị là một sự tác động mang tính quy luật trong các xã hội hiện đại. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, muốn hay không, chúng ta cần phải nhận thức được một cách đầy đủ. Từ suy nghĩ trên, trong phạm vi bài viết này, tôi xin nêu quan niệm của mình về hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay như sau: Hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như thế được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và hệ thống xã hội. Trong điều kiện xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực nhân dân ở nước ta hiện nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành một hệ thống lớn là điều có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc và cần được chú trọng nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn. Từ trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị nước ta không phải là hệ thống của các thiết chế đối lập nhau về lợi ích. Đảng là một thành viên của hệ thống đó nhưng Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử không thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, nhận thức đó vẫn không sai nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động chung của hệ thống chính trị - xã hội đã làm thay đổi tính chất thuần nhất của hệ thống chính trị truyền thống. Kết quả hoạt động của cả hệ thống này là sản phẩm của sự tương tác (tác động qua lại) về chính trị - xã hội rất đa dạng. Trong tính thống nhất của lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và phong phú về lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện đại không thể là sản phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền thống mà tất yếu phải là kết quả của cả hệ thống chính trị - xã hội, trong đó lợi ích vẫn là động lực chính quy định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm xã hội. Như thế, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của Đảng đồng thời nêu cao vai trò của tất cả các thiết chế trong toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội đó. Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh tính riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta trong mối liên hệ so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế giới. So với hệ thống chính trị trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã hội trong một hệ thống chung là hệ thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác). Với cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội, chúng ta có thể xác định được cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam. Hệ thống đó gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân. Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan niệm, các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lí để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay. 2. Các thiết chế trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam – Đặc điểm, vai trò Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể phân biệt ba loại thiết chế là: - Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; - Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam... - Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác... Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội. Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trò và trọng trách là người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp. Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam. Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu. Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời kì đổi mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà các tổ chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu hướng tất yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam mà một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn đến sự hài hòa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế - xã hội. Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức chính trị - xã hội có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những tổ chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như nêu trên, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và gồm các hình thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động tương trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển lợi ích chung của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội còn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự liên kết, tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi ích và ý nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta cần biết phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực. Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một cách đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ mà từ rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội được mô hình hoá như một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc có to, cây mới vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Và theo nguyên lí về mối liên hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đoàn kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính khách quan trong sự phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù không trực tiếp quyết định thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật không thể không tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội kinh tế vào quá trình đó. Như vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội đóng vai trò năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị. Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội. Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của hệ thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống chính trị mà cũng có vai trò, trách nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả hai hệ thống đó không thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp. Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước đã tạo cơ sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ chức này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể là các loại hoạt động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã hội... TRẦN THÁI DƯƠNG*

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf21_6598.pdf