Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên và mức độ đạm niệu trên
bệnh nhân đái tháo đường tại Phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối tương quan ở mức từ trung bình đến chặt chẽ giữa mức độ tiểu
đạm với các chỉ số điện sinh lý về dẫn truyền thần kinh ngoại biên (với R2 từ 0,332 đến 0,652). Trên các dây thần
kinh vận động, chúng tôi ghi nhận sự tương quan nghịch giữa mức độ tiểu đạm với cả biên độ và vận tốc dẫn
truyền. Trong khi đó trên các dây thần kinh cảm giác, chúng tôi ghi nhận có sự tương quan thuận giữa mức độ
tiểu đạm với thời gian tiềm, và tương quan nghịch giữa mức độ tiểu đạm với vận tốc dẫn truyền.
Kết luận: Sự xuất hiện của biến chứng thần kinh ngoại biên trên lâm sàng, nhất là qua khảo sát vận tốc dẫn
truyền, có thể được xem như là một chỉ dẫn cho các bác sĩ nội tiết và thận học nhằm tầm soát và điều trị sớm tổn
thương thận do đái tháo đường, kéo dài thời gian diễn tiến đến suy thận giai đoạn cuối.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 639 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Sựtương quan giữa vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên và mức độ đạm niệu trên bệnh nhân đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 453
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA VẬN TỐC DẪN TRUYỀN THẦN KINH NGOẠI BIÊN
VÀ MỨC ĐỘ ĐẠM NIỆU TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Lê Quốc Tuấn*, Nguyễn Thị Lệ*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự tương quan giữa vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên và mức độ đạm niệu trên
bệnh nhân đái tháo đường tại Phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối tương quan ở mức từ trung bình đến chặt chẽ giữa mức độ tiểu
đạm với các chỉ số điện sinh lý về dẫn truyền thần kinh ngoại biên (với R2 từ 0,332 đến 0,652). Trên các dây thần
kinh vận động, chúng tôi ghi nhận sự tương quan nghịch giữa mức độ tiểu đạm với cả biên độ và vận tốc dẫn
truyền. Trong khi đó trên các dây thần kinh cảm giác, chúng tôi ghi nhận có sự tương quan thuận giữa mức độ
tiểu đạm với thời gian tiềm, và tương quan nghịch giữa mức độ tiểu đạm với vận tốc dẫn truyền.
Kết luận: Sự xuất hiện của biến chứng thần kinh ngoại biên trên lâm sàng, nhất là qua khảo sát vận tốc dẫn
truyền, có thể được xem như là một chỉ dẫn cho các bác sĩ nội tiết và thận học nhằm tầm soát và điều trị sớm tổn
thương thận do đái tháo đường, kéo dài thời gian diễn tiến đến suy thận giai đoạn cuối.
Từ khóa: đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh lý thần kinh ngoại biên (TKNB) do đái tháo đường, vi đạm niệu.
ABSTRACT
THE CORRELATION BETWEEN PERIPHERAL NERVE CONDUCTION VELOCITY
AND PROTEINURIA LEVEL IN DIABETIC PATIENTS
Le Quoc Tuan, Nguyen Thi Le
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 453 ‐ 457
Objective: To investigate of the correlation between peripheral nerve conduction velocity and level of
proteinuria in diabetic outpatients at the Nephrology department of HCMC University Medical Center.
Method: cross‐sectional study
Results: The study found a strong correlation between proteinuria level and electrophysiological
measurements of peripheral nerve conduction (with R2 from 0.332 to 0.652). On motor nerves, we recorded a
negative correlation between the proteinuria level with both amplitude and conduction velocity. Meanwhile on
sensory nerves, we noted a positive correlation between the proteinuria level with latency, and the negative
correlation between the proteinuria level with conduction velocity.
Conclusion: The presence of peripheral neuropathy (with decreasing conduction velocity on EMG) should
be considered as an important sign to screen and treat early the diabetic nephropathy.
Key words: diabetes mellitus, diabetic peripheral neuropathy (DPN), microalbuminuria.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước vào thế kỷ 21, đái tháo đường (ĐTĐ)
đã trở thành nguyên nhân hàng đầu dẫn đến
suy thận mạn giai đoạn cuối. Tỷ lệ mới mắc của
đã bệnh tăng gấp đôi trong vòng một thập kỷ
qua, chiếm 45% các trường hợp cần phải điều trị
thay thế thận ở Hoa Kỳ. Sự gia tăng tỉ lệ ĐTĐ
* Bộ môn Sinh lý, ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Quốc Tuấn ĐT: 01096929792 Email: tuan_lqc@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 454
kéo theo sự gia tăng bệnh thận ĐTĐ. Trong
nhiều nghiên cứu, sự hiện diện của bệnh lý thần
kinh (TK) ngoại biên có thể được xem là một
điểm đánh dấu cần phải xem xét vì biến chứng
này thường diễn tiến song hành với suy giảm
chức năng thận(7). Sự ra đời của phương pháp
chẩn đoán điện sinh lý bao gồm nhiều kỹ thuật,
trong đó có khảo sát dẫn truyền thần kinh đã
đem lại một hướng đi mới cho việc phát hiện
sớm bệnh lý TK ngoại biên.
Tại Việt Nam đã có các công trình nghiên
cứu nhằm nâng cao hiểu biết về biến chứng TK
ngoại biên trên bệnh nhân ĐTĐ như: “Nghiên
cứu bệnh lý thần kinh ngoại biên do đái tháo đường
bằng phương pháp chẩn đoán điện” của tác giả Vũ
Anh Nhị (1996); “Khảo sát điện cơ trên bệnh nhân
đái tháo đường mạn tính” của tác giả Nguyễn Mai
Hòa (2007) nhưng vẫn chưa đủ để đánh giá toàn
diện các đặc điểm cũng như những yếu tố ảnh
hưởng đến dẫn truyền thần kinh trên bệnh nhân
ĐTĐ, đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ có biến
chứng thận kèm theo. Vì vậy, chúng tôi thực
hiện đề tài này nhằm cung cấp thêm một số
thông tin về đặc điểm dẫn truyền thần kinh trên
bệnh nhân ĐTĐ, góp phần trong việc phát hiện
sớm các biến chứng trên bệnh nhân ĐTĐ.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo
đường tại phòng khám Thận – BV Đại học Y
Dược TP.HCM từ tháng 03/2013 đến 07/2013.
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo 4 tiêu
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) 2013:
HbA1C ≥6,5 %.
Đường huyết đói ≥126 mg/dL (7,8mmol/L).
Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp dung
nạp glucose ≥200 mg/dL (11,1mmol/L).
Đường huyết bất kỳ ≥200 mg/dL
(11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển hình
của tăng đường huyết (khát nhiều, uống nhiều,
tiểu nhiều, sụt cân).
Tiêu chuẩn loại ra
Bệnh nhân có tiểu đạm kèm theo tiểu máu,
tiểu bạch cầu, tiểu các trụ bất thường, bệnh nhân
hội chứng thận hư.
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Kỹ thuật chọn mẫu
Liên tục không xác suất.
Phương pháp thu thập số liệu
Đo dẫn truyền thần kinh ngoại biện ở các
dây quay, giữa, trụ, chày, mác bằng máy đo điện
cơ Neuro‐MEP‐Micro; đánh giá vi đạm niệu
bằng tỉ số ACR (albumin / creatinine).
Xử lý số liệu
Phần mềm STATA 10.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại
phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 03/2013 đến tháng 07/2013, số
liệu ghi nhận trên 40 bệnh nhân được chẩn đoán
và điều trị ĐTĐ.
Mức độ đạm niệu ở nhóm nghiên cứu
Bảng: Mức độ đạm niệu ở nhóm nghiên cứu
Protein niệu
Thời gian bị ĐTĐ
Tổng cộng
10 năm
Bình thường 9 3 2 14 (37,8%)
Vi thể 5 2 5 12 (32,5%)
Đại thể 2 2 7 11 (29,7%)
Tổng cộng 16 7 14 37 (100%)
Nghiên cứu của chúng tôi có 23 BN ĐTĐ có
biến chứng thận (chiếm 62,2%) với tiểu đạm vi
thể là 12 BN (chiếm 32,5%) và tiểu đạm đại thể là
11 BN (chiếm 29,7%). Số BN có đạm niệu dương
tính tập trung chủ yếu ở nhóm có thời gian bệnh
trên 5 năm với 16/23 BN (chiếm 76,2%), khác biệt
so với nhóm có thời gian bệnh dưới 5 năm (p
<0,05). Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận sự
tương quan thuận có ý nghĩa ở mức trung bình
với R = 0,349 (p <0,05) giữa thời gian bệnh và
mức tiểu đạm.
Kết quả này khá phù hợp với nghiên cứu
của tác giả Diệp Thị Thanh Bình(2) về tần suất
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 455
tiểu đạm vi thể trên BN ĐTĐ là 33,7%; và sự liên
quan giữa thời gian mắc bệnh với mức tiểu đạm
(R = 0,53 đối với ĐTĐ type 1 và R = 0,04 đối với
ĐTĐ type 2). Khác biệt về hệ số R ở đây có thể
giải thích là do trong dân số nghiên cứu của
mình, chúng tôi không có sự phân biệt ĐTĐ
type 1 và type 2 như tác giả.
Sự tương quan giữa mức độ đạm niệu và
dẫn truyền trên các dây TK vận động
ngoại biên
Biến số mức độ đạm niệu có phân phối
không đều nên chúng tôi tính hệ số Spearman
(R) thể hiện mối tương quan giữa mức độ tiểu
đạm với biên độ và vận tốc dẫn truyền TK,
thực hiện trên tất cả các dây thần kinh được
khảo sát.
Bảng 2: Hệ số tương quan giữa các chỉ số điện sinh
lý với đạm niệu
Thần kinh Đặc điểm Bên R p
TK giữa-vận
động
Biên độ
T – 0,301 0,07
P – 0,396 <0,05
Vận tốc
T – 0,438 <0,01
P – 0,389 <0,05
TK trụ-vận
động
Biên độ
T – 0,015 0,93
P – 0,076 0,65
Vận tốc
T – 0,548 <0,001
P – 0,533 <0,001
TK chày
Biên độ
T – 0,363 <0,05
P – 0,413 <0,05
Vận tốc
T – 0,652 <0,001
P – 0,482 <0,01
TK mác sâu
Biên độ
T – 0,334 <0,05
P – 0,313 0,06
Vận tốc
T – 0,588 <0,001
P – 0,379 <0,05
Kết quả cho thấy có sự tương quan nghịch
có ý nghĩa ở mức trung bình đến chặt chẽ (|R|
từ 0,334 đến 0,652) giữa mức độ tiểu đạm với
biên độ điện thế và vận tốc dẫn truyền trên các
dây TK vận động.
Mức tương quan mạnh nhất thuộc về TK
chày (R = – 0,652) và TK mác sâu (R=‐0,588).
Sự tương quan giữa mức độ đạm niệu và
dẫn truyền trên các dây TK cảm giác
ngoại biên
Bảng 3: Hệ số tương quan giữa các chỉ số điện sinh
lý với đạm niệu
Thần kinh Đặc điểm Bên R p
TK giữa-cảm giác
TG tiềm
T 0,157 0,35
P 0,038 0,8
Vận tốc
T – 0,078 0,64
P – 0,078 0,65
TK trụ-cảm giác
TG tiềm
T 0,374 <0,05
P 0,561 <0,001
Vận tốc
T – 0,358 <0,05
P – 0,457 <0,01
TK quay
TG tiềm
T 0,739 <0,0001
P 0,649 <0,0001
Vận tốc
T – 0,464 <0,01
P – 0,315 0,06
TK mác nông
TG tiềm
T 0,293 0,08
P 0,410 <0,05
Vận tốc
T – 0,372 <0,05
P – 0,477 <0,01
Kết quả cho thấy có sự tương quan nghịch
có ý nghĩa ở mức trung bình (|R| từ 0,358 đến
0,477) giữa mức độ tiểu đạm với vận tốc dẫn
truyền của các dây TK cảm giác. Mức tương
quan mạnh nhất thuộc về TK mác nông (R=‐
0,477). Đồng thời chúng tôi cũng ghi nhận sự
tương quan thuận có ý nghĩa ở mức trung bình
đến mạnh (R từ 0,374 đến 0,739) giữa mức độ
tiểu đạm với thời gian tiềm của các dây TK
cảm giác. Mức tương quan mạnh nhất thuộc
về TGT của TK quay (R = 0,739).
Như vậy, trên các dây TK vận động, chúng
tôi ghi nhận sự tương quan nghịch giữa mức
độ tiểu đạm với cả biên độ và vận tốc dẫn
truyền. Trong khi đó trên các dây TK cảm giác,
chúng tôi ghi nhận có sự tương quan thuận
giữa mức độ tiểu đạm với thời gian tiềm, và
tương quan nghịch giữa mức độ tiểu đạm với
vận tốc dẫn truyền. Kết quả này phù hợp với
nhiều nghiên cứu khi khảo sát các yếu tố ảnh
hưởng lên dẫn truyền TK ngoại biên trên BN
ĐTĐ. Năm 1999, Tác giả Dyck(3) ghi nhận
trong rất nhiều các yếu tố độc lập được đưa ra,
thì độ nặng của biến chứng TKNB do ĐTĐ có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 456
liên quan rõ ràng nhất với mức độ tiểu đạm
(R2 = 0,48) và với độ nặng của bệnh lý võng
mạc (R2 =0,43). Như vậy có một điểm chung,
đó là mối quan hệ giữa các biến chứng mạch
máu nhỏ như bệnh lý võng mạc, bệnh lý thận
lên bệnh TKNB do ĐTĐ. Điều này củng cố cho
quan điểm về cơ chế tổn thương TKNB xảy ra
trên BN ĐTĐ là do tình trạng thiếu máu, thiếu
oxy đến sợi TK(4,9) hoặc có thể là do sự rò rỉ các
thành phần huyết tương vào môi trường bên
trong sợi TK, mà những điều này đều là là hậu
quả của các tổn thương vi mạch. Nhiều bằng
chứng cho thấy sự xâm nhập của các thành
phần huyết tương vào môi trường trong sợi
TK là có hại(3). Với nhận xét tương tự, tác giả
Paul Valensi(8) cũng ghi nhận mối liên hệ giữa
bệnh TKNB do ĐTĐ với sự hiện diện của các
biến chứng khác, kể cả các biến chứng mạch
máu lớn. Thêm vào đó, tác giả còn chỉ ra một
điểm rất đáng lưu ý là hầu như ở tất cả những
BN đã có một trong các biến chứng khác của
bệnh ĐTĐ, đặc biệt là bệnh lý thận và bệnh lý
võng mạc, thì đều ghi nhận được bất thường
trên điện sinh lý; đồng thời cũng có một tỉ lệ
BN có bất thường trên điện sinh lý nhưng
chưa phát hiện các biến chứng còn lại. Điều
này có thể gợi ý rằng bệnh TKNB, với biểu
hiện bất thường trên điện sinh lý, xảy ra sớm
hơn những biến chứng còn lại do ĐTĐ. Báo
cáo của Khoa dịch tễ và y tế công cộng ‐ Đại
học Luân Đôn ở Anh (EURODIAB) trên 3.250
BN ĐTĐ type 1 từ 31 thành phố của 16 nước
châu Âu(6) cho thấy bên cạnh các yếu tố liên
quan đến biến chứng TKNB do ĐTĐ như tuổi,
thời gian mắc bệnh, bệnh lý võng mạc đã được
biết từ những nghiên cứu trước, thì vi đạm
niệu một lần nữa được xác nhận có liên quan
đến sự hiện diện và mức độ nặng của bệnh
TKNB trên BN ĐTĐ.
Bảng 4: So sánh BĐĐT và VTDT vận động ở các nhóm có đạm niệu khác nhau
Đạm niệu TK giữa-vận động TK mác sâu
Biên độ (mV) Vận tốc (m/s) Biên độ (mV) Vận tốc (m/s)
Bình thường 10,59 ± 2,57 53,55 ± 6,38 3,39 ± 1,66 41,34 ± 2,66
Vi thể 8,91 ± 2,70 51,67 ± 6,00 3,78 ± 1,43 37,91 ± 4,06
Đại thể 8,20 ± 1,85 47,29 ± 4,50 2,37 ± 1,70 34,96 ± 5.72
Bảng 5: So sánh TGT và VTDT cảm giác ở các nhóm có đạm niệu khác nhau
Đạm niệu TK giữa-cảm giác TK mác nông
TG tiềm (ms) Vận tốc (m/s) TG tiềm (ms) Vận tốc (m/s)
Bình thường 3,35 ± 1,01 44,20 ± 12,25 2,40 ± 0,72 55,77 ± 12,4
Vi thể 3,08 ± 0,77 48,03 ± 9,95 2,95 ± 0,88 46,30 ± 11,51
Đại thể 3,46 ± 0,76 42,04 ± 8,29 3,12 ± 0,83 42,23 ± 11,33
Bảng 6: Đặc điểm dẫn truyền TK mác sâu trên 3
nhóm BN tiểu đạm giữa các nghiên cứu
Nhóm BN M.Charles Chúng tôi
Vận tốc dẫn truyền (m/s)
Bình thường 44,3 ± 4,4 41,34 ± 2,66
Tiểu đạm vi thể 41,4 ± 4,6 37,91 ± 4,06
Tiểu đạm đại thể 41,4 ± 3,6 34,96 ± 5.72
Biên độ điện thế (mV)
Bình thường 5,5 ± 3,1 3,39 ± 1,66
Tiểu đạm vi thể 4,1 ± 2,3 3,78 ± 1,43
Tiểu đạm đại thể 4,0 ± 3,1 2,37 ± 1,70
Để có cái nhìn trực quan, chúng tôi mô tả các
đặc điểm điện sinh lý về dẫn truyền TK trên BN
ĐTĐ ở 3 nhóm: không có tiểu đạm, tiểu đạm vi
thể và tiểu đạm đại thể. Kết quả ở Bảng 4 và
Bảng 5 cho thấy một quy luật chung là sự kéo
dài thời gian tiềm, giảm biên độ điện thế và
giảm vận tốc dẫn truyền tăng dần qua 3 nhóm
BN. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu
của tác giả M.Charles vào năm 2010 trên 456 BN
ĐTĐ type 1 về mối liên quan giữa vận tốc dẫn
truyền TK với các biến chứng mạch máu nhỏ
của bệnh ĐTĐ(1).
Như vậy, khá nhiều những bằng chứng
cho thấy có mối liên hệ giữa tiểu đạm và biến
chứng TKNB ở BN ĐTĐ dựa trên cơ sở sinh lý
bệnh là sự tổn thương vi mạch. Từ đó dẫn đến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 457
một điểm đáng chú ý rằng có thể sự xuất hiện
của các dấu hiệu bệnh TKNB do ĐTĐ ‐ trên
lâm sàng và khảo sát điện sinh lý ‐ phần nào
đó giúp người bác sĩ điều trị hướng đến một
tổn thương thận còn ở đang giai đoạn sớm
nhằm đưa ra chiến lược điều trị hợp lý, duy trì
chức năng thận, kéo dài thời gian diễn tiến đến
suy thận mạn.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên nhóm BN ĐTĐ điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y Dược
Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối tương
quan độc lập ở mức từ trung bình đến chặt chẽ
giữa mức độ tiểu đạm với các chỉ số điện sinh
lý về dẫn truyền thần kinh ngoại biên (với R2
từ 0,332 đến 0,652). Điều này đưa đến một gợi
ý về sự song hành của các biến chứng mạch
máu nhỏ do đái tháo đường, trong đó biểu
hiện sớm nhất và nhạy nhất chính là bệnh lý
thần kinh ngoại biên. Sự xuất hiện biến chứng
TK ngoại biên có thể được xem như là một chỉ
dẫn giúp các bác sĩ nội tiết và thận học có định
hướng nhằm tầm soát và điều trị sớm tổn
thương thận do đái tháo đường. Trên lâm sàng
thường có sự không tương xứng giữa triệu
chứng chủ quan của bệnh nhân và kết quả đo
dẫn truyền thần kinh. Nhiều trường hợp bệnh
nhân không có rối loạn cảm giác hay vận động
ở các chi, nhưng vận tốc dẫn truyền trên EMG
đã bắt đầu suy giảm. Đây là thời điểm quý báu
để bắt đầu tiến hành theo dõi đạm niệu trên bệnh
nhân. Như vậy, đo dẫn truyền thần kinh ngoại
biên nên được xem xét như là một phương pháp
theo dõi định kỳ cho nhóm biến chứng mạch máu
nhỏ ở bệnh nhân ĐTĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Charles M, et al (2010). Low Peripheral Nerve Conduction
Velocities and Amplitudes Are Strongly Related to Diabetic
Microvascular Complications in Type 1 Diabetes: The
EURODIAB Prospective Complications Study. Diabetes Care,
Vol.33(12), 2010: 2648‐2653.
2. Diệp Thanh Bình (2001), “Tầm soát Microalbumin niệu bằng
Micral test trên bệnh nhân đái tháo đường”, Tạp chí Y học
TPHCM, Tập 5(4),44‐47.
3. Dyck PJ, et al (1999). Risk factors for severity of diabetic
polyneuropathy: intensive longitudinal assessment of the
Rochester Diabetic Neuropathy Study cohort. Diabetes Care,
1999: 1479‐1486.
4. Đỗ Trung Quân (2006), Biến chứng bệnh Đái tháo đường và Điều
trị. Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội, tr.09‐198.
5. Nguyễn Thị Lệ và Lê Quốc Tuấn (2013), Khảo sát vận tốc dẫn
truyền trên dây thần kinh giữa, Giáo trình thực hành Sinh lý
học, Nhà xuất bản Y học, Tp. Hồ Chí Minh, tr.140‐155.
6. Tesfaye S, et al (1996). Prevalence of diabetic peripheral
neuropathy and its relation to glycaemic control and potential
risk factors: the EURODIAB IDDM Complications Study,
Diabetologia, Vol.39: 1377–1384
7. Trần Thị Bích Hương (2011), Bệnh thận mạn và Suy thận
mạn, Bệnh học Nội khoa, Nhà xuất bản Y Học, Tp. Hồ Chí
Minh, tr.417‐429.
8. Valensi P, et al (1997). Diabetic peripheral neuropathy: effects
of age, duration of diabetes, glycemic control, and vascular
factors. Journal of Diabetes Complications, Vol.11: 27‐34.
9. Vinik AI (1999). Diabetic neuropathy: pathogenesis and
therapy. The American Journal of Medicine, 1999: 17‐26.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 453_3525.pdf