Báo cáo này mô tả tóm tắt sự chuyển đổi trong quản trị nhà nước ảnh
hưởng tới sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở Việt Nam thể hiện ở phân quyền
từ quản trị tập trung sang giao quyền tự chủ cho các trường đại học và thực trạng
quyền tự chủ của năm nhóm trường đại học hiện nay. Dựa trên dữ liệu được thu
thập thông qua phỏng vấn tại các trường đại học được lựa chọn thuộc năm nhóm
trường và các phân tích khung pháp lý, chính sách về quản trị đại học, sự phân
quyền cho các trường đại học thể hiện ở quyền tự chủ của các trường đại học
trong các lĩnh vực quản trị, tổ chức, nhân sự, học thuật (tập trung vào đào tạo)
và tài chính của 5 nhóm cơ sở giáo dục đại học tiêu biểu được mô hình hóa và
trình bày trong Báo cáo. Những phát hiện của nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ
sự chuyển đổi trong quản trị đại học ở Việt Nam, từ tập trung hóa trong giai đoạn
trước, tới sự phân quyền cho các trường đại học được thực hiện từng bước trong
hai thập kỷ qua.
16 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 16/05/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Sự chuyển dịch theo xu hướng phân quyền trong quản trị đại học và thực trạng tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập được hoàn
toàn tự quyết định đối với đội ngũ nhân sự của mình. Các trường đại học công lập
chưa được tự chủ trong bổ nhiệm lãnh đạo cao nhất, thì trường đại học ngoài công
lập được tự quyết định Hiệu trưởng của mình, tuy nhiên, tiêu chuẩn Hiệu trưởng
của một trường đại học vẫn phải tuân theo quy định của Nhà nước (Điều lệ trường
đại học và Luật Giáo dục đại học).
4 nhóm cơ sở GDĐH công lập được tự chủ nhiều trong tuyển dụng, lựa chọn
giảng viên, thậm chí bổ nhiệm các chức danh nghề nghiệp của giảng viên (hạng) và
bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư, nhưng tất cả các hành động quản trị trong lĩnh vực
nhân sự này phải tuân theo Luật Giáo dục đại học, Điều lệ trường đại học và Luật
Công chức, Viên chức và nhiều văn bản quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ và của Bộ
GD&ĐT. Nhóm cơ sở GDĐH ngoài công lập không được bổ nhiệm giảng viên vào
các chức danh nghề nghiệp do Bộ Nội vụ quản lý.
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành160
Biểu đồ 2. Mức tự chủ trong lĩnh vực nhân sự của một số nhóm trường đại học
e) Các mô hình quản trị đại học trong lĩnh vực học thuật
Về học thuật, những vấn đề quan trọng của đào tạo như mở ngành đào tạo và
tuyển sinh, cho tới thời điểm hiện tại, các cơ sở GDĐH được trao nhiều quyền quyết
định hơn rất nhiều so với giai đoạn trước, khi mọi việc đều do Bộ GD&ĐT quyết
định. Cụ thể, trên Biểu đồ 3, đường biểu diễn mức độ tự chủ của các nhóm cơ sở
GDĐH nằm chủ yếu bên phía tay phải của Biểu đồ.
Luật Giáo dục đại học 2012 cho phép các trường đại học được tự chủ trong mở
ngành đào tạo, trong đó “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chi tiết điều
kiện mở ngành đào tạo; quy định trình tự, thủ tục mở ngành, đình chỉ hoạt động
của ngành đào tạo...”, đồng thời Bộ Giáo dục và Đào tạo lại quyết định luôn việc cho
phép mở hoặc đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo. Do đó, trừ ĐHQG và Trường
đại học thí điểm tự chủ theo NQ 77 được tự chủ về mở ngành đào tạo đối với cả
ngành trong và ngoài Danh mục đào tạo của Nhà nước; các trường đại học công lập
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 161
khác và trường ngoài công lập, được tự chủ hơn trong quá trình xây dựng ngành
đào tạo mới trong Danh mục đào tạo của Nhà nước, nhưng vẫn do Bộ GD&ĐT ra
quyết định cho phép.
Biểu đồ 3. Mức tự chủ trong lĩnh vực đào tọa của một số nhóm trường đại học
Về tiêu chí tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh, nếu như trước đây, Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định các tiêu chí tuyển sinh, phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho từng
trường thì trong những năm gần đây, các các cơ sở GDĐH được tự quyết định tiêu
chí tuyển sinh và chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp với năng lực của mình đồng thời tuân
theo quy định về cách xác định chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ GD&ĐT1.
f) Các mô hình quản trị đại học trong lĩnh vực tài chính
Tự chủ về tài chính là cơ sở quan trọng để cơ sở GDĐH thực hiện các nội
dung tự chủ khác. Tự chủ về tài chính cho phép các trường đại học chủ động trong
việc huy động nguồn lực tài chính và duy trì nguồn lực tài chính, từ đó chủ động
trong việc lựa chọn đội ngũ giảng viên, nhà khoa học cũng như các chính sách đãi
ngộ, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư và các điều kiện đảm bảo chất lượng cho phát
1 (Thông tư 06/2018/TT-BGDĐT ngày 28/02/2018; trước đó là Thông tư 32/2015/TT-BGDĐT, ngày
16/12/2015).
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành162
triển và nâng cao chất lượng. Sự chuyển dịch trong quản lý tài chính thể hiện rõ
thông qua sự thay đổi cơ chế tài chính của Chính phủ đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập, thông qua việc Chính phủ ban hành các chính sách về giao và đẩy mạnh
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính1.
Biểu đồ 4. Mức tự chủ trong lĩnh vực tài chính của một số nhóm trường đại học
Trong lĩnh vực tài chính, các cơ sở GDĐH thuộc hai nhóm, nhóm sử dụng ngân
sách Nhà nước sẽ phải thu – chi tuân theo khung pháp lý và nhóm không sử dụng
ngân sách Nhà nước được chủ động nhiều hơn trong việc chi tiêu. Trên Biểu đồ 4
cho thấy, các trường được quyết định mức thu học phí, mức lương, thưởng, thu
nhập tăng thêm của người lao động trong khuôn khổ khung pháp lý và các quy
định. Trừ nhóm trường ngoài công lập được hoàn toàn tự quyết định các vấn đề này.
Trong số các hoạt động thuộc lĩnh vực tài chính, các trường đại học rất quan tâm đến
1 Các nghị định: Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, Nghị định 16/2015/NĐ-CP được Chính
phủ ban hành thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP.
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 163
mức học phí, đặc biệt là các trường đại học công. Thực tế, các trường đại học đã được
tự chủ ở một khoảng tương đối rộng trong xác định mức học phí, nhưng vẫn phải
tuân theo quy định của Nhà nước về mức trần học phí. Cũng từ thực tế, nguồn thu
của các trường đại học hiện nay chủ yếu vẫn từ học phí, dựa vào tăng quy mô đào
tạo, việc huy động được các nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa
học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và
cá nhân trong nước còn rất hạn chế Do đó, đây là điểm các trường đại học thấy
cần được Nhà nước trao quyền tự chủ tài chính cho các trường trong xác định mức
học phí, để bù đắp chi phí đầu tư còn thấp. Trong giai đoạn hiện nay, nguồn thu từ
học phí được xem như một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục của các
trường đại học Việt Nam.
3. Kết luận
Có thể thấy rõ, trong giai đoạn hiện nay sự chuyển dịch việc thực thi quyền
lực từ cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản đối với các cơ sở GDĐH đang
diễn ra trong quản trị GDĐH Việt Nam. Nhà nước quản lý ở tầm vĩ mô để điều
tiết trong toàn hệ thống; các cơ sở GDĐH tự chủ hoạt động theo các điều kiện, tiêu
chuẩn chất lượng do pháp luật quy định. Các cơ quan quản lý nhà nước, giảm bớt
quyền lực, can thiệp đối với các cơ sở giáo dục đại học, tập trung vào việc hoạch
định chính sách xây dựng các quy chuẩn, tăng cường giám sát, quản lý. Các trường
đại học đã được tự quyết định trong rất nhiều hoạt động của nhà trường trong
khuôn khổ các khung pháp lý, quy định, quy chuẩn và thực hiện trách nhiệm giải
trình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào năng lực tự chủ, cơ quan chủ quản, hình thức sở hữu
mà sự chuyển dịch này không đồng đều trong các nhóm trường đại học khác nhau.
Phương thức quản trị đại học vĩ mô dựa vào một hệ thống quy định, pháp lý, quy
chuẩn để giám sát; các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ nhưng trong một khuôn khổ
các chuẩn mực là phương thức quản trị của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
để các cơ sở GDĐH có được tự chủ thực chất, đặc biệt là trong lĩnh vực học thuật,
Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước cần xác định hệ thống các quy định của
pháp luật và các quy chuẩn phù hợp đủ để giúp các cơ quan quản lý Nhà nước giám
sát được các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời vừa thuận lợi cho các trường đại học
thực hiện tự chủ trong các khuôn khổ quy chuẩn, pháp lý đó và đảm bảo thực hiện
trách nhiệm giải trình, tránh tự chủ về mặt kỹ thuật như được đánh giá đối với các
nước trong cùng khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Khổng Tử, khi Nhà nước vẫn
duy trì kiểm soát khung chương trình và bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo cấp cao của các
trường đại học (Marginson, 2010).
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành164
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số
QG.18.27.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD&ĐT, Báo cáo về việc rà soát quy hoạch mạng lưới và thành lập trường đại học
mới giai đoạn 2016 – 2020, văn bản số 54 /BC-BGDĐT ngày 04/02/2016.
2. Chương trình cải cách GDĐH (viết tắt là HERA), ban hành tại Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt
Nam giai đoạn 2006-2020”.
3. Lê Ngọc Hùng. “Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: Lý thuyết hệ thống và
kiến tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp”. Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2019.
4. Phong, N. Đ., & Huy Nhựt, N. H. “Quản trị đại học và mô hình cho trường
đại học khối kinh tế ở Việt Nam”. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (8 (18)), 63-68.
5. Tran, T. T. (2014). “Governance in higher education in Vietnam–a move towards
decentralization and its practical problems”. Journal of Asian Public Policy, 7(1),
71-82.
6. Thùy, B. L. “Phác thảo bức tranh tự chủ đại học hiện nay”. Tạp chí Phát triển và
Hội nhập, (3 (13)), 71-75.
7. Hayden, M., & Thiep, L. Q. (2007). Institutional autonomy for higher education
in Vietnam. Higher Education Research & Development, 26(1), 73-85.
8. Marginson, S. (2010), Higher education in East Asia and Singapore: Rise of the
Confucian Model, Higher Education, 61(5), 587-61A1.
9. Lee, M. H., & Gopinathan, S. (2004). Centralized decentralization of higher
education in Singapore. In Centralization and Decentralization (pp. 136-117).
Springer, Dordrecht.
Phần 1. TRIẾT lÝ, MÔ THỨc, PHƯƠNG THỨc GIÁO Dục THEO ĐỊNH HƯỚNG 4.0 165
THE TRANSITION TOWARD DECENTRALIZATION IN UNIVERSITY
GOVERNANCE AND CURRENT AUTONOMY OF HIGHER EDUCATION
INSTITUTIONS IN VIETNAM
Abstract: This report summarizes briefly the transition in state governance to the
transformation of university governance in Vietnam, reflected in the decentralization
from centralized governance to power sharing to universities and the current
autonomy of the five university groups. Based on the data collected through
interviews at selected universities in five groups and the analisis the legal and policy
frameworks for university governance, the decentralization shown in autonomy
of universities in the areas of organization, personnel, academia (focused on
training) and finance of five groups of typical higher education institutions modeled
and spresented in the Report. The findings of the study contribute to shedding light
on the transformation of university governance in Vietnam, from centralization in
the previous period, to the decentralization of universities to be done step by step
in two decades.
Keywords: University governance, Decentralization, Autonomy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_chuyen_dich_theo_xu_huong_phan_quyen_trong_quan_tri_dai_h.pdf