Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng bắt đầu đề ra đường lối Đổi mới toàn diện đất nước đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VII - 1991 đã kế thừa, bổ sung hoàn thiện thêm đường lối của Đại hội VI cho phù hợp với tình hình mới. Sau gần 10 năm thực hiện, công cuộc Đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn; đem đến cho nước ta diện mạo mới mẻ so với những năm trước đó. Nằm trong sự chuyển biến chung như vậy, cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam 1991 - 1995 cũng có những biến đổi tương ứng, phức tạp, đa dạng nhưng về cơ bản theo hướng tích cực, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Cơ cấu kinh tế - xã hội là đặc trưng cơ bản nhất của mỗi một thời kỳ lịch sử. Nó vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy lịch sử phát triển. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội những năm sau luôn có sự kế thừa, hoàn thiện hơn sự chuyển dịch của những năm trước đó; có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới, với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tìm hiểu về sự chuyển dịch trong kết cấu kinh tế - xã hội cho phép ta hiểu sâu sắc hơn về sự biến đổi của cả lịch sử giai đoạn tương ứng. Không những thế từ việc tìm hiểu đó, ta rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau, tránh mắc phải những sai lầm, hạn chế đã mắc phải để thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát triển cao nhất trong điều kiện cho phép.
61 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 3014 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - Xã hội Việt Nam 1986 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng bắt đầu đề ra đường lối Đổi mới toàn diện đất nước đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VII - 1991 đã kế thừa, bổ sung hoàn thiện thêm đường lối của Đại hội VI cho phù hợp với tình hình mới. Sau gần 10 năm thực hiện, công cuộc Đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn; đem đến cho nước ta diện mạo mới mẻ so với những năm trước đó. Nằm trong sự chuyển biến chung như vậy, cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam 1991 - 1995 cũng có những biến đổi tương ứng, phức tạp, đa dạng nhưng về cơ bản theo hướng tích cực, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Cơ cấu kinh tế - xã hội là đặc trưng cơ bản nhất của mỗi một thời kỳ lịch sử. Nó vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy lịch sử phát triển. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội những năm sau luôn có sự kế thừa, hoàn thiện hơn sự chuyển dịch của những năm trước đó; có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới, với chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tìm hiểu về sự chuyển dịch trong kết cấu kinh tế - xã hội cho phép ta hiểu sâu sắc hơn về sự biến đổi của cả lịch sử giai đoạn tương ứng. Không những thế từ việc tìm hiểu đó, ta rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau, tránh mắc phải những sai lầm, hạn chế đã mắc phải để thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát triển cao nhất trong điều kiện cho phép.
Trong tiến trình gần 20 năm thực hiện Đổi mới đất nước, những năm 1991 - 1995 có một vị thế đặc biệt quan trọng. Đây là cầu nối giữa giai đoạn 1986 - 1990 (là thời kỳ bắt đầu Đổi mới với nhiều bỡ ngỡ khó khăn) với thời kỳ 1996 - 2000 (là những năm mà công cuộc đổi mới đã có những bước tiến vượt bậc). Trong hoàn cảnh thế giới có nhiều biến động, cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam những năm 1991 - 1995 có nhiều chuyển biến quan trọng, vừa là bước tiếp nối vừa đặt nền tảng cho sự biến đổi những năm sau đó.
Nghiên cứu chuyển dịch kết cấu kinh tế - xã hội và những năm 1991 - 1995 có ý nghĩa to lớn như vậy nhưng thực sự vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện nào về những năm này của lịch sử Việt Nam. Do đó trong nội dung chuyên đề “Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam 1986 - 2000”, người viết đã lựa chọn giai đoạn này làm đề tài của mình, với mong muốn làm rõ hơn những thay đổi cơ bản nhất về kinh tế, về xã hội nước ta trong những năm 1991 – 1995.
II. Phạm vi, giới hạn của đề tài
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận chuyên đề, với những hạn chế nhất định về thời gian, tư liệu, khả năng, người viết không thể đi sâu vào, chi tiết sự biến đổi của kinh tế, xã hội Việt Nam những năm 1991 - 1995; do đó chỉ có thể đưa ra cái nhìn khái quát và một số vấn đề cơ bản.
Về bản chất, xét đến cùng cơ cấu xã hội chính là kết quả trực tiếp của biến đổi cơ cấu kinh tế. Vì vậy tôi đã đi từ khái quát sự biến đổi của kinh tế rồi mới đến sự biến đổi kết cấu xã hội. Qua đó thấy được rõ hơn lịch sử Việt Nam những năm này.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có liên quan hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Có nhiều loại cơ cấu khác nhau, theo nhiều tiêu chí xác định. Trong bài này người viết tập trung vào các lĩnh vực sau khi tìm hiểu về cơ cấu kinh tế:
- Cơ cấu vốn đầu tư
- Cơ cấu kinh tế theo thành phần
- Cơ cấu kinh tế theo ngành
- Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ.
- Cơ cấu xuất - nhập khẩu…
Cơ cấu xă hội là tổng hòa những mối quan hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội. Cơ cấu xã hội tuy có tính độc lập tương đối nhưng vẫn chịu ảnh hưởng, tác động của sự biến đổi quan hệ sản xuất. Trong kết cấu xã hội chung, cơ cấu xã hội - giai cấp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu bởi nó gắn liền với quan hệ sản xuất và quy định bản chất những mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu sự biến đổi kết cấu xã hội, đặt nó trong sự vận động, phát triển chung của kinh tế, lịch sử đất nước; có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố đó. Nghiên cứu về biến đổi kết cấu xã hội - giai cấp, có nhiều nội dung nhưng trong phạm vi bài tiểu luận này, người viết tập trung đi sâu tìm hiểu về cơ cấu dân số, lực lượng lao động xã hội, phân hóa xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội.
III. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ đề nghiên cứu biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam trong lịch sử bắt đầu được quan tâm trong vòng hơn 10 năm trở lại đây. Trong đó, với vị thế của mình những năm 1991 - 1995 được các tác giả, nhà nghiên cứu đặc biệt lưu ý. Nhiều công trình, bài viết cùng nghiên cứu về biến đổi cơ cấu Kinh tế - Xã hội - Văn hóa những năm này. Điểm nổi bật là đây không chỉ là đề tài của một lĩnh vực, khoa học riêng nào mà là mối quan tâm chung của nhiều ngành, liên ngành, đa ngành trong nghiên cứu: lịch sử, kinh tế, chính trị…
Trong đó, các tác giả chủ yếu đi vào tìm hiểu về một khía cạnh nào đó của sự biến đổi chung; hoặc của riêng kinh tế, xã hội chứ chưa có sự khái quát toàn diện về cả cơ cấu kinh tế - xã hội.
IV. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu mà tác giả sử dụng được khai thác từ những nguồn sau: Văn kiện của Đảng và Nhà nước trong những năm 1991- 1995. Nguồn tài liệu này cho biết chủ trương chính sách của Đảng ta trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Từ đó ta có cơ sở để xem xét, đánh giá sự chuyển dịch kinh tế - xã hội nước ta.
Tài liệu thứ hai là các ấn phẩm có tính chất thống kê của các cơ quan chức năng gồm: niên giám thống kê qua các năm, niên giám của từng ngành nghề, thống kê xã hội học… Nguồn tài liệu này cho ta những số liệu chính xác, cơ bản và tổng quát nhất về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội.
Nguồn tài liệu tiếp theo mà tác giả sử dụng là các công trình (các bài báo, sách chuyên khảo, các báo cáo đánh giá tổng kết…) của nhiều nhà nghiên cứu, các tổ chức, các nhà chiến lược… đã được công bố. Qua nguồn tài liệu này, ta có thể có được cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về sự biến đổi của đất nước nói chung và của kết cấu kinh tế - xã hội nói riêng.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng tài liệu là các luận án, luận văn, khóa luận… về biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của cả nước, của từng địa phương, khu vực.
Tất cả các nguồn tài liệu trên rất phong phú, đa dạng và đóng góp rất lớn cho tôi trong việc tìm hiểu, thực hiện đề tài. Tuy nhiên do mục đích, nội dung và cách tính toán của từng nguồn khác nhau nên có sự chênh lệch nhất định giữa các số liệu từ các nguồn tài liệu trên. Khi sử dụng số liệu thu được, người viết đã ghi rõ nguồn gốc của nó.
Từ các nguồn tài liệu có được nói trên, trên cơ sở các phương pháp sử học, người viết đã sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, các loại biểu đồ, xã hội học… để làm rõ nhất sự chuyển dịch kinh tế xã hội Việt Nam những năm 1991 - 1995.
V. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài tiểu luận có cấu trúc như sau:
Hoàn cảnh của công cuộc đổi mới đất nước 1991- 1995. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế- xã hội
Biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội 1991- 1995:
3.1. Biến đổi cơ cấu kinh tế
3.2. Biến đổi cơ cấu xã hội
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ - XÃ HỘI 1991 – 1995
I. Hoàn cảnh của công cuộc đổi mới đất nước 1991 – 1995, Những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam
1. Quốc tế
Bước sang năm 1991, thế giới có nhiều biến động lớn lao và có ảnh hưởng sâu sắc đến đất nước ta.
Sau những nỗ lực đổi mới, cải tổ đất nước không thành công và những biến động lớn trên chính trường, Liên Xô và hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ. Sự tan rã này đã làm thay đổi sâu sắc cục diện thế giới, đến tiến trình lịch sử nhân loại. Công cuộc đổi mới ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng lớn từ sự kiện này. Trong yêu cầu cấp thiết phải tăng cường hội nhập, hướng ra xuất khẩu của công cuộc đổi mới thì với sự sụp đổ này, ta đã mất đi một bạn hàng truyền thống, dễ tính và chủ lực. Điều này không chỉ làm cho nền kinh tế mà còn cả chính trị nước ta gặp vô vàn khó khăn. Bắt đầu từ năm 1991 nguồn vay bên ngoài đã giảm mạnh, sự ưu đãi về giá không còn, nợ nước ngoài đã đến kì hạn thanh toán hàng năm tăng lên.
Thế giới bước vào thời kì hậu “chiến tranh lạnh” có nhiều biến đổi lớn lao vừa tạo ra thời cơ mới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta. Yêu cầu khách quan của lịch sử đòi hỏi Việt Nam phải phát triển mọi mặt, nhanh chóng đổi mới kinh tế - xã hội xây dựng đất nước Xã hội Chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới để phù hợp với xu thế toàn cầu hóa. Không những thế nước ta chưa hoàn toàn thoát khỏi thế bị bao vây về kinh tế từ nhiều nước đặc biệt là từ phía Mỹ. Ngoài ra các thế lực phản động cũng luôn tìm cách phá hoại với âm mưu lật đổ công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta bằng nhiều thủ đoạn. Những cuộc xung đột biên giới trên biển, đất liền của các nước trong khu vực đã làm Đông Nam Á trở thành thiếu ổn định, có nguy cơ xung đột tiềm ẩn. Là một quốc gia trong khu vực điều này cũng có ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và phát triển của nước ta.
Bên cạnh những khó khăn đó, ta cũng có những thuận lợi mới cơ bản.
Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới có sự chuyển đổi lớn từ xu thế đối đầu sang đối thoại, lấy kinh tế làm tiêu chí đánh giá sự phát triển, vị thế của mỗi nước và là động lực cạnh tranh chính giữa các nước chứ không còn là ưu thế về quân sự. Xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa ảnh hưởng đến mọi nước trên thế giới tạo ra thách thức, thời cơ mới. Bằng nỗ lực thiện chí của mình và sự ủng hộ của quốc tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước, khu vực; ta cũng đã gia nhập được nhiều tổ chức quốc tế ASEAN, AFTA và đang tích cực vận động cho tiến trình gia nhập WTO.
Tất cả đòi hỏi ta phải có sự thay đổi nhất định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
2. Trong nước
Sau hơn 4 năm thực hiện nghị quyết Đại hội IV - Đại hội của đổi mới, nước ta đã có nhiều biến đổi căn bản trên mọi mặt. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 vẫn còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế nhất định.
Cho đến năm 1991, tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn chưa chấm dứt, về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, chậm phát triển. Tổng số vốn đầu tư phát triển xã hội còn nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; phần lớn là vốn của Nhà nước, vốn ngoài quốc doanh đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn quá nhỏ không tương xứng với tiềm năng của nó. Vốn sử dụng chưa có hiệu quả, phân bố trong các ngành còn chưa hợp lý. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư còn có tình trạng phân tán, chưa tập trung vào các công trình thiết yếu, còn gây nhiều lãng phí.
Ta đã bước đầu xây dựng được nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; nhưng sự phát triển giữa các thành phần kinh tế chưa có sự đồng đều, cơ cấu kinh tế theo thành phần chuyển biến chậm và còn lạc hậu. Thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nhưng hiệu quả hoạt động còn thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ; các thành phần khác còn nhỏ bé và chưa phát huy được vị thế của mình.
Trong cơ cầu kinh tế theo ngành, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn nhất, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa được chú trọng phát triển, tỉ trọng còn nhỏ. Nhìn chung cơ cấu kinh tế phân theo ngành và trong nội bộ từng ngành tuy đã có sự thay đổi theo hướng tích cực hơn nhưng vẫn chưa phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và yêu cầu phát triển đất nước.
Cơ cấu xuất nhập khẩu còn quá mất cân đối; hàng xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa qua chế biến.
Về xã hội, dân số còn tăng với tỷ lệ cao; chất lượng và mức sống thấp. Cùng với cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội vẫn mang đạc điểm cơ bản của một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu.
Cơ bản nước ta vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Đây là điều khó khăn và cũng là nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm sau đó.
II. Đường lối của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng biến đổi cơ cấu kinh tế – xã hội 1991- 1995
Trong hoàn cảnh thế giới có nhiều biến động lớn và trong nước, sau gần 5 năm thực hiện Đổi mới, tuy đã có một số thành tựu nhưng cơ bản nước ta vẫn là nước lạc hậu kém phát triển; yêu cầu đặt ra đối với kinh tế - xã hội là phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình mới để khắc phục hạn chế, hoàn thành mục tiêu chiến lược đã đặt ra trong kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và những năm kế tiếp. Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội VII của Đảng diễn ra trong năm 1991 đã có sự tổng kết đánh giá thời kỳ trước và đề ra phương hướng nhiệm vụ cơ bản của kinh tế - xã hội Việt Nam trong kế hoạch 5 năm 1991- 1995. Tiếp đó, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự bổ sung, hoàn chỉnh, thay đổi chính sách để đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội.
Mục tiêu xuyên suốt của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 được Đảng ta xác định là vượt qua thử thách, ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay. Bo cáo Chính trị của Ban chấp hành TƯ tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, ta chủ trương đẩy lùi và kiểm soát được nguy cơ lạm phát, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ trên, phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa; đẩy nhanh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành tương đối thông suốt cơ chế quản lý mới.
Ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới nền kinh tế. Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Trong nền kinh tế thị trường, từ ba loại hình sở hữu cơ bản sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong hoàn cảnh mới này, các đơn vị kinh tế phải được sắp xếp và được củng cố lại hợp lý với nội dung gắn liền với vai trò chủ đạo của thành phần quốc doanh, thực hiện chức năng như một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước; kinh tế quốc doanh phải phát triển hiệu quả, có vai trò mở đường liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Để thực hiện được điều này, cần tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế quốc doanh trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tài chính ngân hàng, quốc phòng an ninh…
Kinh tế tập thể mà hình thức phổ biến nhát là hợp tác xã, thực hiện đường lối tổ chức và phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề với quy mô và tốc độ tập thể hóa khác nhau; phát triển kinh tế gia đình bằng nhiều hình thức.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ tiểu thương được khẳng định là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Với thành phần kinh tế này cần giúp đỡ về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, cần được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn; không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh và có thể tồn tại độc lập, tham gia và các hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp lớn.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần có tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ và khả năng quản lý, do đó hình thức hợp tác liên doanh này có vai trò to lớn trong việc động viên về vốn, công nghệ và khả năng tổ chức của các nhà tư bản trong sản xuất vì lợi ích của họ và của đất nước. Thành phần này được phát triển không hạn chế cả về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề cho phép; có thể liên doanh với Nhà nước bằng nhiều hình thức, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản Nhà nước.
Về cơ cấu ngành kinh tế:
Ta tập trung đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu để tạo chuyển biến rõ nét về kinh tế.
Phát triển Nông - lâm - ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới; đây được coi như nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế - xã hội. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu nông - lâm - ngư hợp lý, gắn phát triển sản xuất toàn ngành với phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công nghệ thích hợp. Trong sản xuất nông nghiệp, đặt trọng tâm vào sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo an ninh lương thực và là điều kiện để phát triển chăn nuôi, các ngành công nghiệp chế biến.
Sản xuất nông nghiệp đi vào chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp nhằm đạt giá trị cao nhất. Thực hiện tăng sản lượng bằng tăng vụ và tăng năng xuất là chủ yếu. Phát triển và hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi; áp dụng rộng rãi công nghệ, kỹ thuật vào trong sản xuất. Tiếp tục có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp; cơ chế “khoán mười” và chương trình 135 về giao đất, giao rừng tới người dân được hoàn thiện hơn và vẫn phát huy hiệu quả.
Ngành ngư nghiệp chú trọng phát triển đánh bắt và nuôi trồng các loại thủy, hải sản nhất là các loại có khả năng xuất khẩu. Xây dựng đội ngũ lao động giỏi nghề biển, cơ sở hạ tầng và chế biến phát triển lực lượng tàu thuyền, đẩy mạnh đánh bắt xa bờ.
Coi trọng các công nghệ sau thu hoạch, phát triển rộng khắp công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản kết hợp nhiều hình thức, trình độ công nghệ, liên doanh hợp tác với nước ngoài để hiện đại hóa công nghệ, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Trong công nghiệp tập trung phát triển những ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, nguyên nhiên liệu; tận dụng tốt nhất khả năng của tất cả các thành phần kinh tế. Mở rộng hình thức liên doanh hợp tác với nước ngoài làm hầng xuất khẩu.
Kinh tế dịch vụ được đầu tư phát triển ở cả khu vực thành thị và nông thôn; tăng tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế và lao động xã hội.
Định hướng phát triển kinh tế theo lãnh thổ được Đảng ta xác định:
Khu vực Đồng bằng giữ vị trí hàng đầu trong sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, phát triển công nghiệp nông thôn, mở mang dịch vụ. Đặc biệt chú trọng đến việc phát triển lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng.
Khu vực Trung du và miền núi chuyển sang kinh tế hàng hóa, phát huy thế mạnh của vùng như thế mạnh lâm nghiệp; hình thành vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với công nghiệp chế biến, phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Đẩy mạnh việc khai thác kháng sản và thủy năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ như than ở Đông Bắc, hóa chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc và trung du phía Bắc, thủy điện và khai khoáng ở Tây Nguyên.
Riêng đối với khu vực miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư, mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính. tín dụng, tiền lương… để thúc đẩy phát triẻn kinh tế - xã hội.
Vùng biển và hải đảo hướng vào khai thác. nuôi trồng và chế biến thủy sản, khai thác chế biến dầu khí và các sa khoáng, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ về hàng hải, mở mang du lịch… Từng bước khai thác toàn diện các tiềm năng to lớn của kinh tế biển, phát triển kinh tế ở hải đảo, làm chủ lãnh hải và thềm lục địa, thực hiện chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế.
Các tỉnh ven biển phát huy nội lực và điều kiện thuận lợi mở cửa ra bên ngoài, điều chỉnh phương hướng sản xuất và xây dựng thích nghi với điều kiện tự nhiên tránh được sự bất lợi về thiên tai, tạo điều kiện phát triển kinh tế ổn định gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền, đảm bảo củng cố quốc phòng, an ninh.
Các thành phố, thị xã, thị trấn là những trung tâm công nghiệp và thương mại trên từng vùng lớn, nhỏ. Phương hướng phát triển đô thị là hình thành nhiều trung tâm vừa và nhỏ, phân bố hợp lý, không tập trung dân quá đông vào các thành phố lớn.
Một số địa bàn có vị trí quan trọng đối với từng vùng lớn và đối với cả nước như khu vực Hà Nội - Hải Phòng, Quảng Ninh (ở phía Bắc), khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa - Vũng Tàu - Côn Đảo ( ở phía Nam), miền Trung là Đà Nẵng và một số hải cảng khác. Những vùng trên cần thu hút đầu tư của cả nước và của nước ngoài để phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật; đầu mối phát triển kinh tế đối ngoại, liên kết, thúc đẩy và lôi kéo các vùng khác phát triển. Hình thành trên các địa bàn này môt số khu có quy chế đặc biệt về hành chính - kinh tế thuận lợi cho đầu tư làm hàng xuất khẩu và buôn bán với bên ngoài.
Từng tỉnh, thành phố căn cứ vào chiến lược vùng và thế mạnh vùng để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, xây dựng nông thôn, đô thị từ địa bàn dân cư nhỏ nhất (thôn, xã) tới thị trấn, thị xã, các khu phố và thành phố. Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, ta hướng vào khai thác các thế mạnh, động viên các nguồn lực của tất cả thành phần kinh tế ở địa phương và hợp tác liên kết với các nước khác, kể cả với nước ngoài; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng. Trung ương và địa phương cùng đầu tư vào các vùng và cơ sở, sớm đưa lại hiệu quả lớn đồng thời trung ương hỗ trợ cho các địa bàn xung yếu về quốc phòng, một số địa phương miền núi và những nơi đang có nhiều khó khăn ở các vùng căn cứ cũ trong kháng chiến.
Chính sách về xã hội:
Ta chủ trương thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả ba mặt: quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ tăng dân sốmỗi năm khoảng 0,4- 0,6 phần nghìn. Hướng giải quyết việc làm là sử dụng tối đa tiềm năng lao động; chú trọng phát triển những ngành thu hút nhiều lao động như nuôi trồng chế biến nông- lâm- thuỷ sản, hàng xuất khẩu…Người lao động chủ động tìm và tạo ra việc làm.
III. Biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội năm 1991 - 1995
1. Biến đổi cơ cấu kinh tế
3.1.1. Cơ cấu vốn đầu tư
Vốn đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế xã hội. Tuỳ từng thời kỳ mà cơ cấu vốn đầu tư có sự thay đổi nhất định, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, với tình hình cụ thể trong nước và thế giới. Vốn đầu tư trong thời kỳ 1991 - 1995 có những biến đổi nhất định theo hướng tích cực, công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hơn. Điều này được thể hiện ở những mặt sau:
Tổng mức đầu tư xã hội tăng nhanh cả về quy mô, tốc độ tăng trưởng, tạo nguồn lực cho phát triển sản xuất. Từ năm 1991 - 1995, tăng trưởng GDP cao, tích luỹ nội bộ nền kinh tế tăng lên, cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, vốn đầu tư đã tăng lên cả về số lượng và tỷ trọng so với GDP. Năm 1991, tổng mức đầu tư của nền kinh tế chỉ đạt mức 13.470,6 tỷ đồng. Năm 1995 con số này đã lên tới 72.447 tỷ đồng (gấp 5 lần năm 1991); tốc độ tăng trưởng là 26,8%. Có kết quả này là do tiềm lực kinh tế nước ta tăng lên, đây cũng là cơ sở, nguồn lực đảm bảo tiến trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế nước ta trong những năm này.
Cơ cấu vốn đầu tư phân theotheo thành phần kinh tế:
Vốn đầu tư phân theo thành phần trong những năm 1991- 1995 diễn ra theo xu hướng tăng nhanh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn nhà nước tăng chậm và giảm nhanh vốn của khu vực ngoài quốc doanh.
Vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế theo thành phần kinh tế
Đơn vị %
Tổng
Vốn nhà nước
Ngoài nhà nước
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1991
100
38
47,7
14,3
1992
100
35,1
43,9
21
1993
100
44
30,8
25,2
1994
100
38,3
31,3
30,4
1995
100
42
27,6
30,4
Niên giám Thống kê 1995
* Đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng số vốn đầu tư phát triển xã hội. Năm 1991, chiếm 38%, năm 1992 giảm xuống còn 35,15; năm 1993 tăng trở lại đạt 44%, giảm xuống trong năm 1994 và lại tăng lên trong năm 1995. Tỷ trọng của vốn đầu tư nhà nước không ổn định, không diễn ra theo một xu hướng nhất định; nhưng độ chênh lệch giữa các năm liền kề không nhiều. Dù có lúc giảm nhưng các năm sau luôn cao hơn năm 1992 và vẫn có vị trí cao nhất trong cơ cấu tổng vốn đầu tư phát triển xã hội. Điều này đảm bảo ổn định vĩ mô, phát huy vai trò tích cực của nhà nước đối với việc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện nguồn vốn đầu tư từ Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác bị cắt giảm đột ngột, nguồn vốn đầu tư nước ngoài sau khi Mỹ bỏ cấm vận vẫn chưa tăng nhiều. Song điều này cũng cho thấy nước ta vẫn chưa có sức hút với các nhà đầu tư nước ngoài; ta vẫn còn yếu trong việc huy động các nguồn vốn khác - một hạn chế để phát triển kinh tế - xã hội.
* Đầu tư ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng đầu tư phát triển xã hội nhưng có xu hướng giảm dần và giảm ngày càng nhanh qua các năm. Năm 1991, số vồn đầu tư của khu vực này đạt 6.430 tỷ đồng (chiếm 47,7%); sang năm 1992 con số này đạt 1.084 tỷ nhưng chỉ chiếm có 43, 9% giảm 3,8%. Đến năm 1995, chỉ còn có 27,6% (giảm 20,1 % so với năm 1991 và 4% so với năm 1994). Việc đầu tư của khu vực này có xu hướng giảm dần tỷ trọng là do các doanh nghiệp trong nước không thích ứng kịp thời với cơ chế mới, tỏ ra lạc hậu mất ưu thế trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn Nhà nước, nước ngoài. Năm 1993, luật Đầu tư được ban hành và đã có những cố gắng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (88).DOC