So sánh nồng độ mannose-Binding lectin 2 (mbl 2) ở nhóm bệnh thận iga có và không tiến triển suy thận nặng

Đặt vấn đề: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: so sánh nồng độ mannose-binding lectin 2

(MBL2) ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có và không có tiến triển suy thận nặng.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện ở viện Karolinska, Thụy Điển. Nghiên cứu tiến

hành ở 39 mẫu huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA (17 bệnh nhân có biểu hiện tiến triển nặng và 22 bệnh

nhân ổn định, không có dấu hiệu tiến triển) và 39 người khoẻ mạnh phù hợp với nhóm bệnh về giới và tuổi. Kỹ

thuật ELISA (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong nghiên cứu này.

pdf6 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu So sánh nồng độ mannose-Binding lectin 2 (mbl 2) ở nhóm bệnh thận iga có và không tiến triển suy thận nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 277 SO SÁNH NỒNG ĐỘ MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL 2) Ở NHÓM BỆNH THẬN IgA CÓ VÀ KHÔNG TIẾN TRIỂN SUY THẬN NẶNG Vương Tuyết Mai* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: so sánh nồng độ mannose-binding lectin 2 (MBL2) ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có và không có tiến triển suy thận nặng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện ở viện Karolinska, Thụy Điển. Nghiên cứu tiến hành ở 39 mẫu huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA (17 bệnh nhân có biểu hiện tiến triển nặng và 22 bệnh nhân ổn định, không có dấu hiệu tiến triển) và 39 người khoẻ mạnh phù hợp với nhóm bệnh về giới và tuổi. Kỹ thuật ELISA (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mann-Whitney Test) trong các nồng độ của MBL2 giữa nhóm có sự tiến triển gây nặng bệnh và nhóm không suy thận. Khi phân tích nồng MBL2 ở các mức độ khác nhau chúng tôi cũng không phát hiện thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh thận IgA có tiến triển suy thận nặng và nhóm có chức năng thận ổn định ở giới hạn bình thường. Kết luận: Chúng tôi kết luận rằng trong các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ MBL2 huyết thanh không có liên quan với yếu tố tiên lượng nặng cho sự tiến triển bệnh ở bệnh thận IgA. Từ khoá: MBL2, bệnh thận IgA. ABSTRACT THE CONCENTRATION OF MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL2) IN COMPARISON BETWEEN IGA NEPHROPATHY PATIENTS WITH PROGRESSION AND NON-PROGRESSION Vuong Tuyet Mai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 277 - 282 Background: We conducted this study with the aim: to compare the concentration of MBL2 between IgA nephropathy patients with progression and non-progression. Patients and methods: This study was performed in Karolinska Institutet, Sweden. We analysed 39 serum samples from patients with IgA nephropathy (17 patients with progression and 22 in the non-progression group) and 39 healthy controls by ELISA technique (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Denmark). Results: We did not find a difference (Mann-Whitney Test) in MBL levels between IgA nephropathy patients with and without progression. By using categorical analysis with different thresholds for MBL2, no difference between groups was detected. Conclusions: In our own data, we concluded that the concentration of MBL2 did not associate with severity of IgA nephropathy. Keywords: MBL2, IgA nephropathy. ĐẶT VẤN ĐỀ Mannose-binding lectin 2 (MBL2) là một protein huyết thanh được sản xuất từ gan, là một phân tử quan trọng trong hệ thống miễn dịch. Cấu trúc của MBL2 gồm 3 đoạn polypeptide giống hệt nhau với trọng lượng phân tử khoảng 32 kD (228 axit amin), sự kết hợp với 2-3 trimer để tạo ra một cấu trúc giống như bó hoa tương tự cấu trúc của bổ thể C1q và cũng có vai trò như là một thụ thể nhận dạng trong hệ thống bổ thể. * Bộ môn Nội, Đại học Y Hà Nội, Khoa Thận-Tiết Niệu, Bệnh viện Bạch Mai Tác giả liên lạc: TS.BS. Vương Tuyết Mai ĐT: 0915518775. Email: vuongtuyetmai@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 278 Cấu trúc của MBL2 cho phép phân tử này liên kết với các vi sinh vật khác nhau bao gồm cả vi khuẩn Gram dương và âm, Mycobacterium, virus và nấm. Sự gắn kết của MBL2 dẫn đến ngưng kết các vi sinh vật và kích hoạt giải phóng thực bào, ngoài ra còn MBL kích hoạt bổ thể thông qua con đường lectin. Chính vì vậy MBL2 là một trong những yếu tố rất quan trọng trong bảo vệ vật chủ, đặc biệt ở giai đoạn vừa mới bắt đầu khi quá trình đáp ứng miễn dịch còn chưa hình thành đầy đủ. Giả thuyết đặt ra rằng ở những cá nhân có sự bất thường của MBL2 có thể có nguy cơ cao hơn khi bị nhiễm các vi sinh vật với những bất thường tiếp theo của đáp ứng của hệ thống miễn dịch(1). Bệnh thận IgA là một trong những tổn thương cầu thận phổ biết nhất trong nhóm bệnh cầu thận mà đặc trưng là sự lắng đọng của IgA tại gian mạch cầu thận. Sự lắng đọng IgA tại gian mạch cầu thận gây ra một quá trình viêm ngay tại gian mạch, cầu thận, khoảng kẽ gây tình trạng thoát protein niệu ra nước tiểu. Quá trình tiến triển âm thầm theo thời gian dẫn đến tình trạng xơ cứng cầu thận và khoảng 1/3 số bệnh nhân có thể tiến triển đến bệnh thận giai đoạn cuối. Nhiều cơ chế được có khả năng tham gia vào việc gây viêm và tổn thương thận trong đó đặc biệt là sự tương tác trực tiếp giữa IgA và tế bào gian mạch từ đó kích hoạt bổ thể, chính vì vậy mà một tỷ lệ lắng đọng đồng thời thường xuyên nhất với IgA là bổ thể C3. Hiện tại, cơ chế kích hoạt bổ thể trong tổn thương thận ở bệnh thận IgAN chưa được hoàn thiện. Một số nghiên cứu cho thấy sự lắng đọng bổ thể C4 cũng như như lưu hành C4 trong huyết thanh làm kích hoạt phản ứng viêm tại cầu thận của bệnh nhân bệnh thận IgA. Do các nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy IgA không thể kích hoạt bổ thể bằng các con đường cổ điển nên con đường hoạt hóa của lectin được đưa ra(4,2). Lắng đọng của MBL gắn với IgA, như một dấu hiệu để chứng mình sự kích hoạt bằng con đường lectin, thêm nữa, mối liên quan của cầu thận có lắng đọng MBL cho thấy tổn thương thận và kích hoạt bổ thể thông qua con đường lectin có thể là một giả thuyết hợp lý(8). Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: so sánh nồng độ mannose-binding lectin 2 (MBL2) ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có và không có tiến triển suy thận nặng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở 39 mẫu huyết thanh của các bệnh nhân bệnh thận IgA (17 bệnh nhân có biểu hiện tiến triển nặng và 22 bệnh nhân ổn định, không có dấu hiệu tiến triển) và 39 người khoẻ mạnh được lấy từ viện Karolinska, Thụy Điển. Nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA được đánh giá là tiến triển nặng dựa vào sự suy giảm mức lọc cầu thận ước tính và creatinin huyết thanh. Mức lọc cầu thận ước tính (MLCT) được ước lượng theo công thức sửa đổi chế độ ăn uống trong bệnh thận (MDRD) phương trình(6). Nhóm bệnh thận IgA tiến triển nặng được xác định là tăng gấp đôi creatinine huyết thanh trong thời gian theo dõi (ít nhất là một năm) hoặc đến giai đoạn 5 bệnh thận mãn tính (CKD) (GFR <15 ml/phút/1,73m2). Các bệnh nhân với các dữ liệu lâm sàng có sẵn, không có tăng gấp đôi creatinine huyết thanh trong thời gian theo dõi được xếp vào nhóm không tiến triển nặng. Kỹ thuật ELISA (Antibodyshop, DK-2820 Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong nghiên cứu này để định lượng nồng độ MBL2 ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Các số liệu được mã hóa và xử lý bằng chương trình SPSS 17.0. Test Mann-Whitney hoặc Kruskal-Wallis được sử dụng để so sánh các nồng độ MBL2 trong huyết thanh nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Những test này cũng được ứng dụng để phân tích tìm sự khác biệt của nồng độ MBL2 giữa các nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển nặng và không có tiến triển nặng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 279 KẾT QUẢ Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu Nhóm Số lượng Tuổi Giới Nam Nữ Nhóm không tiến triển 22 (100%) 33,27±1,7 6 (27,3%) 9 (72,7%) Nhóm tiến triển 17 (100%) 37,47±3,9 3 (17,6%) 14 (82,4%) Nhóm chứng 39 (100%) 35,08±1,6 9 (21,3%) 30 (76,9%) Nhận xét: Bệnh nhân được lựa chọn cho nhóm bệnh và nhóm chứng tương đương nhau, phù hợp về tuổi, và giới tính. So sánh nồng MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển và nhóm không tiến triển suy thận nặng Nồng độ MBL2 ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển suy thận nặng là 20,35±3,56ng/ml (0,01-47,4ng/ml) không khác biệt so với nhóm không có tiến triển là 20,42±4,2ng/ml (0,02-50/ml). Bảng 2: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển nặng và nhóm không tiến triển ở các loại nồng độ của MBL2 Nồng độ MBL2 Nhóm không tiến triển Nhóm tiến triển Tổng số X2 P n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% <5 ng/ml 6 15,4% 3 7,7% 9 23,1% 0,5 0,7 ≥5 ng/ml 16 41% 14 35,9% 30 76,9% Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% <10 ng/ml 9 23,1% 7 17,9% 16 41% 0 1 ≥10 ng/ml 13 33,3% 10 25,6% 23 59% Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% <15 ng/ml 9 23,1% 9 23,1% 18 46,2% 0,53 0,34 ≥15 ng/ml 13 33,3% 8 20,5% 21 53,8% Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% <20 ng/ml 11 28,2% 9 23,1% 20 51,3% 1 0,55 ≥20 ng/ml 11 28,2% 8 20,5% 19 48,7% Tổng 22 56,4% 17 43,6% 39 100% Nhận xét: Nồng độ MBL2 được chia thành các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so sánh tỷ lệ phân bố của nhóm có tiến triển nặng và nhóm không có tiến triển ở các phân mức khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển suy thận nặng và nhóm chứng Bảng 3: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển suy thận nặng và nhóm chứng ở các loại nồng độ của MBL2 Nồng độ MBL2 Nhóm tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% <5 ng/ml 3 5,4% 8 14,3% 11 19,6% 1 0,56 ≥5 ng/ml 14 25% 31 55,4% 45 80,4% Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% <10 ng/ml 7 12,5% 17 30,3% 24 42,8% 1 0,55 ≥10 ng/ml 10 17,9% 22 39,3% 32 57,2% Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% <15 ng/ml 9 16,1% 19 33,9% 28 50% 1 0,5 ≥15 ng/ml 8 14,3% 20 35,7% 28 50% Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% <20 ng/ml 9 16,1% 21 37,5% 30 53,6% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 280 Nồng độ MBL2 Nhóm tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% ≥20 ng/ml 8 14,3% 18 32,1% 26 46,4% 1 0,59 Tổng 17 30,4% 39 69,6% 56 100% Nhận xét: Nồng độ MBL2 được chia thành các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so sánh tỷ lệ phân bố của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển nặng và nhóm chứng người khỏe mạnh ở các phân mức khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA không tiến triển suy thận nặng và nhóm chứng Bảng 4: Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA không tiến triển và nhóm chứng người khỏe mạnh ở các loại nồng độ của MBL2 Nồng độ MBL2 Nhóm không tiến triển Nhóm chứng Tổng số X2 P n Tỷ lệ % n Tỷ lệ% n Tỷ lệ% <5 ng/ml 6 9,9% 8 13,1% 14 23% 0,55 0,38 ≥5 ng/ml 16 26,2% 31 50,8% 47 77% Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% <10 ng/ml 9 14,8% 17 27,9% 26 42,6% 1 0,5 ≥10 ng/ml 13 21,3% 22 36,1% 35 57,4% Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% <15 ng/ml 9 14,8% 19 31,1% 28 45,9% 0,6 0,38 ≥15 ng/ml 13 21,3% 20 32,8% 33 54,1% Tổng 22 36,1% 39 63,9% 61 100% <20 ng/ml 11 18% 21 34,5% 32 52,5% 0,78 0,5 ≥20 ng/ml 11 18% 18 29,5% 29 47,5% Tổng 22 36% 39 64% 61 100% Nhận xét Nồng độ MBL2 được chia thành các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên khi so sánh tỷ lệ phân bố của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA không có tiến triển nặng và nhóm chứng người khỏe mạnh ở các phân mức khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. BÀN LUẬN Theo tác giả Anja Roos và CS. khi quan sát con đường lectin kích hoạt con đường chỉ có ở một phần trong tổng số bệnh nhân bệnh thận IgA trong nghiên cứu. Phần lớn bệnh nhân bệnh thận IgA mà không có lắng đọng MBL tại gian mạch cầu thận thì không cho thấy bất kỳ bằng chứng nào của sự thiếu hụt MBL hoặc L-ficolin. Điều thú vị trong nghiên cứu của tác giả này là nồng độ MBL huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so với nhóm chứng khỏe mạnh với p=0,002. Nghiên cứu này định lượng MBL huyết thanh 41 bệnh nhân bệnh thận IgA nồng độ MBL huyết thanh trung bình là 1213 ng/ml cao hơn nhóm 190 người khỏe mạnh có nồng độ MBL huyết thanh trung bình là 677 ng/ml. Điều này cho thấy có sự ảnh hưởng của nồng độ MBL đến sự phát triển bệnh thận IgA(8). MBL và L- ficolin có vai trò quan trọng của trong trình đáp ứng miễn dịch, có nhiều bằng chứng về MBL và con đường lectin trong việc kích hoạt bổ thể có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan của vật chủ do các chất trung gian gây viêm. MBL đã được báo cáo tham gia vào quá trình gây thiếu máu cục bộ, tổn thương tái tưới máu trong bệnh nhân đái tháo đường và bệnh thận IgA(8,5). Nghiên cứu của Anja Roos và CS. cho thấy bệnh nhân bệnh thận IgA với cầu thận lắng đọng MBL kích hoạt con đường lectin cho thấy thận tổn thương đáng kể hơn so với nhóm không có lắng đọng biểu hiện bằng sự giãn rộng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 281 gian cầu thận, thâm nhiễm khoảng kẽ, xơ cứng cầu thận và tăng protein niệu. Mối liên quan giữa tiến triển nặng bệnh và con đường lectin kích hoạt làm tổn thương cầu thận có thể do kích hoạt sản phẩm tiền viêm của hệ thống bổ thể, bao gồm C5a và C5b-9, và có khả năng ảnh hưởng trực tiếp của MBL(8). Đồng thời nghiên cứu này cho thấy khi chia bệnh nhân thành 2 nhóm, có (25%) và không có (75%) bằng chứng về kích hoạt bổ thể của con đường lectin tại cầu thận thì cho thấy sự khác biệt. Trường hợp bệnh nhân bệnh thận IgA có lắng đọng MBL tại gian mạch cầu thận co thấy hầu hết có sự suy giảm chức năng thận 2 lần hoặc tiến triển đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối so với nhóm không có lắng đọng MBL2 tại gian mạch cầu thận với p<0,0001. Thêm vào đó bệnh nhân có lắng đọng MBL2 tại gian mạch cầu thận có biểu hiện số lượng protein niệu nhiều hơn đáng kể so với nhóm không có lắng đọng MBL2 tại gian mạch cầu thận(8). Khi chúng tôi tiến hành định lượng nồng độ MBL2 trong huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA với nhóm có tiến triển suy thận nặng và nhóm duy trì được chức năng thận ổn định, kết quả nhiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển và không có tiến triển suy thận nặng. Tuy kết quả nghiên cứu của chúng tôi không đồng nhất với kết quả của Anja Roos và CS, nhưng một số tác giả khác cũng không tìm thấy vai trò của MBL2 trong một số các quần thể bệnh thận IgA khác. Endo M. và CS tiến hành nghiên cứu ở 45 bệnh nhân bệnh thận IgA và 35 bệnh nhân tổn thương thận do các bệnh cầu thận khác. Các tiêu bản sinh thiết thận được nghiên cứu miễn dịch bằng kháng thể đơn dòng chống lại MBL. Mối liên quan của lâm sàng mô bệnh học và huyết thanh cũng được thực hiện phân tích ở bệnh nhân bệnh thận IgA. Các trường hợp phát hiện có lắng đọng MBL dương tính ở gian mạch cầu thận đều là ở những bệnh nhân bệnh thận IgA còn trẻ và sinh thiết thận đã được thực hiện ở giai đoạn sớm của bệnh. Tuy nhiên, không có tương quan đáng kể giữa lắng đọng MBL/MASP-1 ở cầu thận và protein niệu, đái máu, creatinin, và nồng độ IgA, C3, C4 hoặc tại thời điểm sinh thiết thận. Thêm vào đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa MBL/MASP-1 và các mức độ phức hợp miễn dịch hoặc hòa tan C5b-9 trong huyết tương của nhóm bệnh và nhóm chứng(3). Một trong những nghiên cứu quan trọng là nghiên cứu về kiểu gen của những điểm khác biệt của gen MBL2 giữa nhóm bệnh và nhóm chứng cũng như nhóm có tiến triển nặng và không có tiến triển nặng. Vì sự thay đổi của một nucleotide trong cấu trúc gen có khả năng ảnh hưởng đến nồng độ MBL2 lưu hành trong huyết thanh. Sự thay đổi của cấu trúc gen cũng có thể ảnh hưởng đến chức năng của MBL2 và có thể có ái tính hơn với gian mạch cầu thận hoặc có khả năng kết hợp với IgA tạo thành phức hợp miễn dịch lắng đọng tại gian mạch cầu thận. Nghiên cứu của Pirulli D và CS. tiến hành xác định kiểu gen của một số SNPs (single nucleotide polymorphisms) của gen MBL ở vị trí promoter và codon 54 thực hiện trên 22 gia đình bệnh nhân bệnh thận IgA và trong 138 bệnh nhân bệnh thận IgA và 74 người khỏe mạnh làm nhóm chứng phù hợp về chủng tộc cho thấy tỷ lệ alleles và kiểu gen của các SNPs ở vị trí -550, - 328, -221 và codon 54 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các bệnh nhân và nhóm chứng, đồng thời cũng không cho thấy sự khác biệt về tần số tương tự của các SNPs khi phân nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA chia theo các biểu hiện lâm sàng của tiến triển và không có tiến triển nặng(7). Con đường lectin kích hoạt bổ sung, được khởi xướng bởi các MBL cho thấy sự phức tạp trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA cũng như quá trình tiến triển bệnh. Rõ ràng rằng nhiều nghiên cứu cho thấy MBL2 góp phần vào sự phát triển của tổn thương cầu thận trong một số lượng đáng kể các trường hợp với bệnh nhân bệnh thận IgA. Tuy nhiên, một số nghiên cứu về Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 282 nồng độ MBL2 trong huyết thanh không cho thấy sự khác biệt của nồng độ MBL2 ở nhóm bênh và nhóm chứng cũng như sự ảnh hưởng của nồng độ MBL2 trong sự tiến triển gây nặng bệnh ở bệnh nhân bệnh thận IgA. Như vậy, những nghiên cứu tiếp theo rất cần tiến hành để bổ sung thêm sự hiểu biết sâu sắc hơn về sinh bệnh học của bệnh thận IgA. Đặc biệt trong đó có mối quan hệ với nhiễm trùng vì MBL2 đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chủ chống lại tác nhân gây bệnh khác nhau và bệnh thận IgA thường có biểu hiện lâm sàng rõ rệt xảy ra trong vòng 48 giờ sau viêm đường hô hấp trên hoặc nhiễm trùng khác. KẾT LUẬN Trong kết quả thí nghiệm, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Mann- Whitney Test) trong các nồng độ của MBL giữa huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA có tiến triển và không có tiến triển suy thận nặng. Thêm vào đó khi chúng tôi phân tích sự tiến triển bệnh ở các phân loại mức độ của MBL2 huyết thanh cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng nào của sự khác biệt giữa các nhóm. Chúng tôi kết luận rằng trong các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, MBL2 là không phải là một biomarker hữu ích cho việc dự đoán nguy cơ nặng bệnh cũng như yếu tố tiên lượng cho sự tiến triển suy thận ở bệnh thận IgA. Lời cảm ơn : Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô đã tận tình chỉ dạy và tạo mọi điều kiện cho nghiên cứu được tiến hành: Stefan H. Jacobson, Leonid Padyukov, Iva Gunnarsson, Đỗ Thị Liệu, Đinh Thị Kim Dung, Sigrid Lundberg, Lars Wramner, Anders Fernstrom và Lars A Hanson. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Eva Jemseby, Per-Anton Westerberg, Susanne Schepull, Micael Gylling và Per Eriksson đã tham gia tạo dựng bước đầu cho quá trình nghiên cứu. Tôi chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của dự án các bệnh phổ biến Việt Nam, Đại học Y Hà Nội, Sida/SAREC, Roche, quĩ nghiên cứu thận Thụy Điển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akito T, Reiko T, Takayuki S (2005). Mannose binding lectin: Genetics and autoimmune disease. Autoimmunity Reviews 4: 364–372. 2. Donadio JV, Grande JP (2002). IgA nephropathy. N Engl J Med 347: 738 –748. 3. Endo M, Ohi H, Ohsawa I et al (1998). Glomerular deposition of mannose-binding lectin (MBL) indicates a novel mechanism of complement activation in IgA nephropathy. Nephrol Dial Transplant. 13(8): 1984-90. 4. Floege J, Feehally J (2000). IgA nephropathy: Recent developments. J Am Soc Nephrol 11: 2395–2403. 5. Hansen TK, Tarnow L, Thiel S, et al (2004). Association between mannose-binding lectin and vascular complications in type 1 diabetes. Diabetes 53: 1570 –1576. 6. Levey AS, Bosch JP, Lewis JB et al (1999). A more accurate method to estimate glomerular filtration rate from serum creatinine: a new prediction equation. Modification of Diet in Renal Disease Study Group. Ann Intern Med, 130(6): p. 461- 70. 7. Pirulli D, Boniotto M, Vatta L et al (2001). Polymorphisms in the promoter region and at codon 54 of the MBL2 gene are not associated with IgA nephropathy. Nephrol Dial Transplant. 16(4): 759-64. 8. Roos A, Rastaldi MP, Calvaresi N et al (2006). Glomerular Activation of the Lectin Pathway of Complement in IgA Nephropathy Is Associated with More Severe Renal Disease. J Am Soc Nephrol 17: 1724–1734. Ngày nhận bài báo: 16/10/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf277_282_964.pdf
Tài liệu liên quan