Mục tiêu: So sánh kết quả giữa mổ mở (MM) và mổ nội soi (MNS) trong điều trị tắc tá tràng bẩm sinh
(TTTBS) ở trẻ sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân (BN) sơ sinh có cân nặng hơn1500 g và không có dị
tật tiêu hóa khác được phẫu thuật điều trị tắc tá tràng bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 1/2009
đến tháng 7/2015 và so sánh kết quả giữa MM và MNS.
Kết quả: Có 101 BN thuộc đối tượng nghiên cứu với tuổi trung bình và cân nặng khi mổ là 11,3 ± 11,3 ngày
và 2491 ± 445g. 44 BN được MM và 57 BN được MNS. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm
về tuổi, giới, cân nặng khi mổ, các dị tật kèm theo, các chỉ số xét nghiệm. Thời gian trung bình MM và MNS là 95
phút và 96 phút (p>0,05). So với MM, BN sau MNS có tỷ lệ biến chứng thấp hơn hẳn (3,5% so với 36,4%,
p<0,001), có thời gian trung bình bắt đầu cho ăn đường miệng và nằm viện sau mổ ngắn hơn (tương ứng là 4,1
so với 7,1 ngày và 8,9 so với 12,9 ngày, p<0,05). BN sau MNS có kết quả thẩm mỹ tốt hơn MM.
Kết luận: MNS giảm tỷ lệ biến chứng, rút ngắn thời gian phục hồi và nằm viện sau mổ, có kết quả thẩm mỹ
tốt hơn so với MM và do đó nên là lựa chọn hàng đầu trong điều trị TTTBS ở trẻ sơ sinh có chọn lọc.
Từ khóa: Mổ mở, mổ nội soi, tắc tá tràng bẩm sinh.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 660 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu So sánh kết quả giữa mổ mở và mổ nội soi trong điều trị tắc tá tràng bẩm sinh ở trẻ sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 18
SO SÁNH KẾT QUẢ GIỮA MỔ MỞ VÀ MỔ NỘI SOI
TRONG ĐIỀU TRỊ TẮC TÁ TRÀNG BẨM SINH Ở TRẺ SƠ SINH
Trần Ngọc Sơn*, Hoàng Hữu Kiên*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh kết quả giữa mổ mở (MM) và mổ nội soi (MNS) trong điều trị tắc tá tràng bẩm sinh
(TTTBS) ở trẻ sơ sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân (BN) sơ sinh có cân nặng hơn1500 g và không có dị
tật tiêu hóa khác được phẫu thuật điều trị tắc tá tràng bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 1/2009
đến tháng 7/2015 và so sánh kết quả giữa MM và MNS.
Kết quả: Có 101 BN thuộc đối tượng nghiên cứu với tuổi trung bình và cân nặng khi mổ là 11,3 ± 11,3 ngày
và 2491 ± 445g. 44 BN được MM và 57 BN được MNS. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm
về tuổi, giới, cân nặng khi mổ, các dị tật kèm theo, các chỉ số xét nghiệm. Thời gian trung bình MM và MNS là 95
phút và 96 phút (p>0,05). So với MM, BN sau MNS có tỷ lệ biến chứng thấp hơn hẳn (3,5% so với 36,4%,
p<0,001), có thời gian trung bình bắt đầu cho ăn đường miệng và nằm viện sau mổ ngắn hơn (tương ứng là 4,1
so với 7,1 ngày và 8,9 so với 12,9 ngày, p<0,05). BN sau MNS có kết quả thẩm mỹ tốt hơn MM.
Kết luận: MNS giảm tỷ lệ biến chứng, rút ngắn thời gian phục hồi và nằm viện sau mổ, có kết quả thẩm mỹ
tốt hơn so với MM và do đó nên là lựa chọn hàng đầu trong điều trị TTTBS ở trẻ sơ sinh có chọn lọc.
Từ khóa: Mổ mở, mổ nội soi, tắc tá tràng bẩm sinh.
ABSTRACT
COMPARISON BETWEEN OPEN AND LAPAROSCOPIC SURGERY IN MANAGEMENT
OF CONGENITAL DUODENAL OBSTRUCTION IN NEONATES.
Tran Ngoc Son, Hoang Huu Kien* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 5 - 2015: 18 - 22
Objective: To compare the results between open surgery (OS) and laparoscopic surgery (LS) in management
of congenital duodenal obstruction (CDO) in neonates.
Methods: Medical records of all neonates with weight over 1500g and without other gastrointestinal
anomalies which underwent surgery for CDO in National Hospital of Pediatrics for the period between January
2009 and July 2015 were reviewed. The results between OS and LS were compared.
Results: 101 patients were identified, with mean age and weight at surgery 11.3 ± 11.3 days and 2491 ±
445g respectively. 44 patients underwent OS and 57 patients – LS. There were no significant differences between
the 2 groups regarding age, gender, weight at surgery, associated anomalies, laboratory investigations. The mean
operative time of OS and LS was 95 and 96 minutes (p>0.05). In comparison to OS, LS group had lower rate of
postoperative complications (3.5% vs 36.4%, p<0.001), with shorter time to oral feeding and postoperative
hospital stay (4.1 vs 7.1 days and 8.9 vs 12.9 days respectively, p<0.05). Patients after LS had better postoperative
cosmesis than OS.
Conclusions: LS decreases the complication rate, reduces the recovery time and postoperative hospital stay
with better postoperative cosmesis in comparison to OS and therefore should be the first choice in management of
CDO in selected neonates.
* Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên lạc: TS BS Trần Ngọc Sơn, ĐT: 0904138502, Email: drtranson@yahoo.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 19
Key words: Open surgery (OS), laparoscopic surgery (LS), management of congenital duodenal obstruction
(CDO).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc tá tràng bầm sinh (TTTBS) là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây tắc ruột cao ở
trẻ sơ sinh. Điều trị qui chuẩn cho TTTBS ở trẻ sơ
sinh là mổ mở (MM), với kỹ thuật phổ biến nhất
là nối tá-tá tràng và ít hơn là nối tá-hỗng tràng
hoặc cắt màng ngăn(1). Bax và cộng sự đã thực
hiện đầu tiên mổ nội soi (MNS) điều trị TTTBS
bằng nối tá-tá tràng vào năm 2001(2).
Cho đến nay nhiều trung tâm đã ứng dụng
MNS trong điều trị TTTBS(5,7) nhưng mới chỉ có
một vài nghiên cứu so sánh kết quả giữa MNS
và MM trong điều trị TTTBS ở trẻ sơ sinh với số
lượng bệnh nhân hạn chế và kết quả cũng không
đồng nhất(8,3,4). Ở Việt nam cho đến nay chưa có
báo cáo nào về đề tài này.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh kết quả điều trị TTTBS giữa 2
phương pháp MM và MNS.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi hồi cứu lại các bệnh nhân (BN) sơ
sinh có cân nặng hơn1500 g với chẩn đoán
TTTBS và không có dị tật tiêu hóa khác được
điều trị phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Trung
ương từ tháng 1/2009 đến tháng 7/2015. Chẩn
đoán tắc tá tràng bẩm sinh ở đây bao gồm teo tá
tràng và tắc tá tràng do tụy nhẫn. Các dị tật tiêu
hóa phối hợp là tiêu chuẩn loại trừ khỏi nghiên
cứu bao gồm teo thực quản, không hậu môn, dị
tật ruột quay dở dang. Kỹ thuật mổ điều trị
TTTBS được chọn cho đồng nhất giữa 2 nhóm là
nối tá-tá tràng hoặc nối tá –hỗng tràng. Chỉ định
BN cho MM hay mổ NS là phụ thuộc vào chủ
quan và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Các
dữ liệu đươc tập hợp và phân tích bao gồm ngày
tuổi, giới, cân nặng lúc mổ, dị tật khác kèm theo,
xét nghiệm máu và sinh hóa trước mổ, chẩn
đoán nguyên nhân TTTBS trong mổ, thời gian
mổ, tai biến và biến chứng, kết quả sớm sau
phẫu thuật (phục hồi lưu thông ruột, thời gian
nằm viện sau mổ) và so sánh kết quả giữa MM
và MNS.
Phương pháp sử dụng so sánh giữa các biến
định lượng là t – test độc lập, giữa các biến định
tính là chi square hoặc Fisher’s exact test. Khác
biệt được cho là có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.
KẾT QUẢ
Có 101 BN thuộc đối tượng nghiên cứu với
tuổi trung bình và cân nặng khi mổ là 11,3 ± 11,3
ngày và 2491 ± 445g. 44 BN được MM và 57 BN
được MNS. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm về tuổi, giới, cân nặng khi
mổ, các dị tật kèm theo, các chỉ số xét nghiệm,
nguyên nhân gây tắc tá tràng (Bảng 1).
Bảng 1: So sánh bệnh nhân giữa 2 nhóm mổ mở
và mổ nội soi.
Biến so sánh
Mổ mở
n= 44
Mổ nội soi
n= 57
p
Tuổi trung bình (ngày) 13,3±13,7 9,8±8,8 0,12
Giới (nam/nữ) 22:22 29:28 0,93
Cân nặng trung bình lúc mổ
(g)
2547±489 2447±400 0,26
Có dị tật kèm theo: tỷ lệ %
Tim bẩm sinh
Hội chứng Down
18,1
4,5
13,6
10,8
5,3
7,0
>0,05
Xét nghiệm máu:
Hemoglobin trung bình (g/l)
Tỷ lệ prothrombin trung bình%
Bilirubin toàn phần (
20,2±13,3
79±24
257±101
20,2±13,3
77±19
228±123
>0,05
Nguyên nhân TTTBS (tỷ lệ %)
Teo tá tràng type I (màng
ngăn)
Teo tá tràng type III (teo gián
đoạn)
Tụy nhẫn
63,6
15,9
20,5
75,4
14,0
10,6
>0,05
Tất cả các BN được MNS đều được nối tá-tá
tràng trong khi ở nhóm MM có 42 BN được nối
tá-tá tràng và 2 BN nối tá-hỗng tràng. Thời gian
trung bình MM và MNS là 95 phút và 96 phút
(p>0,05). So với MM, BN sau MNS có tỷ lệ biến
chứng thấp hơn hẳn (3,5% so với 36,4%, p<0,001),
có thời gian trung bình bắt đầu cho ăn đường
miệng và nằm viện sau mổ ngắn hơn (tương ứng
là 4,1 so với 7,1 ngày và 8,9 so với 12,9 ngày,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 20
p<0,05) (Bảng 2). BN sau MNS có kết quả thẩm
mỹ tốt hơn MM.
Bảng 2: So sánh kết quả điều trị tắc tá tràng bẩm
sinh giữa mổ mở và mổ nội soi.
Biến so sánh Mổ mở
n= 44
Mổ nội soi
n= 57
p
Thời gian mổ trung bình
(phút)
96±28 95±17 0,78
Tai biến trong mổ (%) 0 0 -
Biến chứng sau mổ: tỷ lệ
Rò miệng nối
Hẹp/ tắc miệng nối
Viêm phổi
Nhiễm khuẩn huyết
Chảy máu sau mổ
Nhiễm khuẩn vết mổ
36,4%
2,3%
4,5%
2,3%
6,8%
0
18,2
3,5%
0
0
1,7%
0
1,7%
0
<0,0001
Từ vong/nặng xin về sau
mổ (%)
2,2 1,7 0,68
Thời gian trung bình bắt
đầu cho ăn đường miệng
sau mổ (ngày)
7±4,6 4±2,2 <0,0001
Thời gian nằm viện trung
bình sau mổ
12,9±7,9 8,8±4,9 0,002
Không có BN nào trong nhóm MNS phải
chuyển mổ mở. Biến chứng sau mổ bao gồm
viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, hẹp miệng
nối, chảy máu sau mổ (do rối loạn đông máu),
nhiễm khuẩn vết mổ. Nhóm MM có 1 BN bị rò
miệng nối, nhiễm khuẩn nặng tử vong ngày
thứ 9 sau mổ và nhóm MNS có 1 BN viêm
phổi nặng suy hô hấp tử vong ngày thứ 17 sau
mổ (mặc dù BN này đã phục hồi lưu thông
tiêu hóa). So với MM, BN sau MNS có tỷ lệ
biến chứng thấp hơn hẳn (3,5% so với 36,4%,
p<0,001). Đặc biệt nhóm BN được MNS không
có nhiễm khuẩn vết mổ, không bị nhiễm
khuẩn huyết, không bị tắc/hẹp miệng nối. 2
BN trong nhóm MM bị hẹp/tắc miệng nối: 1
BN được nong thành công bằng nội soi tiêu
hóa trên và 1 BN phải mổ làm lại miệng nối.
BÀN LUẬN
Những ưu điểm nói chung của MNS so với
MM như giảm sang chấn hơn, giảm đau hơn sau
mổ, có thể giúp người bệnh phục hồi tốt hơn, rút
ngắn thời gian nằm viện sau mổ, kết quả thẩm
mỹ tốt hơn đã được nhiều nghiên cứu đề cập
trong y văn, đặc biệt trên các BN người lớn. Đây
cũng là nguyên nhân MNS ngày càng được ứng
dụng rộng rãi ở trẻ em. Tuy nhiên MNS trên trẻ
sơ sinh với các bệnh lý như TTTBS được đánh
giá là một trong những phẫu thuật nhi khó
nhất(12). Đã có một số nghiên cứu được công bố
về kết quả của MNS điều trị TTTBS ở trẻ em với
kết quả tốt, trong đó có cả những báo cáo của
bệnh viện Nhi Trung Ương(5,11,3,7). Tuy vậy một số
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ MNS phải chuyển MM
cao tới 35%(4), thời gian MNS lâu hơn so với
MM(3,4), tỷ lệ biến chứng từ đến 27%(3) đã đặt ra
câu hỏi liệu MNS trong điều trị TTTBS có thực
sự ưu điểm hơn so với MM?
Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay
trong y văn mới có 3 nghiên cứu so sánh giữa
MNS và MM trong điều trị TTTBS và kết quả
cũng chưa đồng nhất. Nghiên cứu của Spilde T
và cộng sự năm 2008(8) với 29 BN (15 BN mổ nội
soi, 14 BN mổ mở) cho thấy MNS rút ngắn thời
gian hồi phục lưu thông tiêu hóa sau mổ, giảm
thời gian nằm viện so với MM. Tuy nhiên
nghiên cứu của Hill S năm 2011(3) trên 58BN (22
BN mổ nội soi, 36 BN mổ mở) và nghiên cứu của
Jensen A năm 2013(4) trên 64 BN (20 BN mổ nội
soi, 44 BN mổ mở) cho thấy kết quả chức năng
sau MNS và MM là không có khác biệt có ý
nghĩa trong khi MNS có thời gian mổ kéo dài
hơn so với MM.
Nghiên cứu này của chúng tôi được dựa trên
số lượng BN lớn nhất cho tới nay. Kết quả của
nghiên cứu này đã khẳng định ưu thế của PTNS
so với MM: MNS rút ngắn thời gian phục hồi lưu
thông tiêu hóa, giảm thời gian nằm viện sau mổ
so với MM. Đáng chú ý là tỷ lệ biến chứng sau
MNS thấp hơn có ý nghĩa so với MM, đặc biệt là
các biến chứng liên quan tới miệng nối, nhiễm
khuẩn vết mổ, viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết.
Chúng tôi cho rằng MNS với độ phóng đại
cao của camera góp phần khâu nối chính xác
hơn, làm giảm tỷ lệ biến chứng miệng nối. Ưu
thế của MNS giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ mổ
là vượt trội so với MM. Tuy nhiên trong nghiên
cứu này, tỷ lệ nhiễm khuẩn sau MM (kể cả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 21
nhiễm khuẩn vết mổ và nhiễm khuẩn huyết) là
khá cao so với các báo cáo khác trên thế giới(8,3,4).
Một nghiên cứu khác tại bệnh viện Nhi Đồng 2,
thành phố Hồ Chí Minh năm 2013 cũng cho thấy
biến chứng nhiễm khuẩn sau MM điều trị
TTTBS rất cao tới 59,6%. Như vậy đây cũng là
điều đáng lưu tâm cần cải thiện khi điều trị các
BN mổ mở TTTBS không chỉ tại bệnh viện của
chúng tôi mà còn ở Việt nam nói chung. Kết quả
của nghiên cứu này cho thấy MNS chính là một
cách tiếp cận để giảm các biến chứng nói trên.
Thời gian MNS trong loạt BN của chúng tôi
cũng tương đương, không lâu hơn so vớí MM.
Điều này là khác biệt so với các tác giả khác(3,4).
Chúng tôi cho rằng thời gian thao tác nối tá tá
tràng trong MNS có thể lâu hơn so với MM
nhưng bù lại MNS không mất thời gian mở bụng
và đóng bụng, cùng với hoàn thiện kỹ năng
khâu nội soi là nguyên nhân cho kết quả này.
Mặc dù chưa được đánh giá với thang điểm
khách quan, ưu thể về thẩm mỹ sau MNS theo
chủ quan củachúng tôi là vượt trội so với MM và
là môt trong những yếu tố khiến gia đình BN hài
lòng hơn.
Kết quả của MNS trong nghiên cứu này là
tương đương hoặc tốt hơn so với các tác giả khác
trên thế giới, tiếp tục kết quả của chúng tôi đã
công bố trước đây(9,7). Kỹ thuật nội soi nối tá-tá
tràng kiểu chéo đơn giản của chúng tôi là có thể
là một yếu tố quan trọng cho thành công này.
Chúng tôi cũng chia sẻ quan điểm kỹ năng và
kinh nghiệm MNS của phẫu thuật viên cùng với
khả năng và kinh nghiệm hôi sức sơ sinh sau mổ
là yếu tố cần thiết khác để có kết quả tốt
Hạn chế của nghiên cứu này là tính chất hồi
cứu, các bệnh nhân chưa được phân nhóm ngẫu
nhiên và không có đồng nhất giữa kỹ năng của
phẫu thuật viên MM và MNS, tương tự như 3
nghiên cứu so sánh khác đã công bố(8,3,4). Tuy
nhiên với số lượng BN nghiên cứu lớn, nghiên
cứu này đã đưa thêm bằng chứng thực tế góp
phần khẳng định ưu thể của MNS so với MM.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, chúng
tôi tin rằng MNS nên là lựa chọn hàng đầu trong
điều trị TTTBS ở trẻ sơ sinh với chỉ định chọn
lọc. Cần có thêm các nghiên cứu khác đánh giá
kết quả ứng dụng MNS trên trẻ bị TTTBS có kèm
dị tật tiêu hóa khác như ruột quay dở danng, teo
thực quản.
KẾT LUẬN
MNS có thời gian mổ tương đương, giảm tỷ
lệ biến chứng, rút ngắn thời gian phục hồi và
nằm viện sau mổ, có kết quả thẩm mỹ tốt hơn so
với MM và do đó nên là lựa chọn hàng đầu
trong điều trị TTTBS ở trẻ sơ sinh với chỉ định
chọn lọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Applebaum H, Lee SL, Puapong DP (2006). Duodenal atresia
and stenosis- Annular pancreas. In: Grosfeld JL, Oneill JA,
Fonkalsrud EW, Coran AG (eds). Pediatric Surgery, 6th ed.
Philadelphia: Mosby Elsevier, pp.1399–1405.
2. Bax NM, Ure BM, van der Zee DC, van Tuijl I (2001).
Laparoscopic duodenoduodenostomy for duodenal atresia. Surg
Endosc 15(2):pp. 217.
3. Hill S, Koontz CS, Langness SM, Wulkan ML (2011).
Laparoscopic versus open repair of congenital duodenal
obstruction in infants. J Laparoendosc Adv Surg Tech A.
21(10):pp. 961-3.
4. Jensen AR, Short SS, Anselmo DM, Torres MB, Frykman PK,
Shin CE, Wang K, Nguyen NX (2013). Laparoscopic versus open
treatment of congenital duodenal obstruction: Multicenter short-
term outcomes analysis. J Laparoendosc Adv Surg Tech A;23:pp.
876–880.
5. Kay S, Yoder S, Rothenberg S (2009). Laparoscopic
duodenoduodenostomy in the neonate. J Pediatr Surg. 44(5):pp.
906-8.
6. Riquelme M, Aranda A, Riquelme-Q M, Rodriquez C (2008).
Laparoscopic treatment of duodenal obstruction: report on first
experiences in Latin America. Eur J Pediatr Surg. 18(5):pp. 334-6.
7. Son TN, Liem NT, Kien HH (2015). Laparoscopic simple oblique
duodenoduodenostomy in management of congenital duodenal
obstruction in children. J Laparoendosc Adv Surg Tech
A.;25(2):pp. 163-166.
8. Spilde TL, St Peter SD, Keckler SJ, Holcomb GW 3rd, Snyder CL,
Ostlie DJ (2008). Open vs laparoscopic repair of congenital
duodenal obstructions: a concurrent series. J Pediatr Surg
43(6):pp. 1002-5.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Nhi 22
9. Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Liêm, Hoàng Hữu Kiên (2014).
Phẫu thuật nội soi điều trị tắc tá tràng bẩm sinh ở trẻ em: Hiệu
quả của kỹ thuật nối tá-tá tràng kiểu chéo đơn giản. Y học Việt
nam.;416:pp. 70-74.
10. Trần Thanh Trí, Lâm Thiên Kim (2013). Đánh giá kết quả điều
trị tắc tá tràng ở trẻ em. Y học thành phố Hồ Chí Minh; phụ bản
tập 17(3):pp. 26-31.
11. Valusek PA, Spilde TL, Tsao K, et al (2007). Laparoscopic
duodenal atresia repair using surgical U-clips: a novel
technique. Surg Endosc. 21(6):pp. 1023-4.
12. Van der Zee DC (2011). Laparoscopic repair of duodenal atresia:
revisited. World J Surg. 35(8):pp. 1781-4.
Ngày nhận bài báo: 23/08/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/08/2015
Ngày bài báo được đăng: 01/10/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 18_22_8049.pdf