Mục tiêu: so sánh hiệu quả giảm đau bằng dò liều morphin phối hợp với ketamin so với morphin đơn thuần
ở bệnh nhân (BN) sau phẫu thuật bụng.
Đối tượng và phương pháp: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 BN chia thành 3
nhóm, mỗi nhóm 40 BN tại phòng hậu phẫu Khoa Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3-9/2010.
Kết quả: giảm tổng lượng morphin tiêu thụ trong 60 phút dò liều (12,30 ± 4,99 mg ở nhóm II, 12,35 ± 5,36
mg ở nhóm III so với 15,35 ± 5,3 mg ở nhóm I) với p<0,05; tăng tỷ lệ dò liều thành công (92,5% ở nhóm II, so với
65% ở nhóm III và 60% ở nhóm I) và giảm đáng kể lượng perfalgan sử dụng ngay sau dò liều (0,1 ± 0,3 g ở
nhóm II so với 0,32±0,47 g ở nhóm III và 0,35 ± 0,48 g ở nhóm I
7 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu So sánh hiệu quả giảm đau bằng dò liều morphin phối hợp với ketamin so với morphin đơn thuần ở bệnh nhân sau phẫu thuật bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 241
SO SÁNH HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU BẰNG DÒ LIỀU MORPHIN
PHỐI HỢP VỚI KETAMIN SO VỚI MORPHIN ĐƠN THUẦN
Ở BỆNH NHÂN SAU PHẪU THUẬT BỤNG
Trần Hữu Vinh*, Nguyễn Hồng Thủy*
TÓM TẮT
Mục tiêu: so sánh hiệu quả giảm đau bằng dò liều morphin phối hợp với ketamin so với morphin đơn thuần
ở bệnh nhân (BN) sau phẫu thuật bụng.
Đối tượng và phương pháp: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 120 BN chia thành 3
nhóm, mỗi nhóm 40 BN tại phòng hậu phẫu Khoa Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3-9/2010.
Kết quả: giảm tổng lượng morphin tiêu thụ trong 60 phút dò liều (12,30 ± 4,99 mg ở nhóm II, 12,35 ± 5,36
mg ở nhóm III so với 15,35 ± 5,3 mg ở nhóm I) với p<0,05; tăng tỷ lệ dò liều thành công (92,5% ở nhóm II, so với
65% ở nhóm III và 60% ở nhóm I) và giảm đáng kể lượng perfalgan sử dụng ngay sau dò liều (0,1 ± 0,3 g ở
nhóm II so với 0,32±0,47 g ở nhóm III và 0,35 ± 0,48 g ở nhóm I.
Kết luận: phối hợp morphin với ketamin liều thấp trong dò liều với tỷ lệ 1:1 đạt hiệu quả giảm đau tốt làm
giảm tổng lượng morphin tiêu thụ trong 60 phút dò liều, tăng tỷ lệ dò liều thành công và giảm đáng kể lượng
thuốc giảm đau sử dụng ngay sau dò liều và ít tác dụng phụ.
Từ khóa: ketamin, morphin, phẫu thuật bụng
ABSTRACT
COMPARISON OF ANALGESIC EFFECTS OF THE TILTRATION OF COMBINATIONS
OF MORPHINE AND KETAMINE AND MORRPHINE ALONE IN POSTOPERATIVE PATIENTS
WITH ABDOMINAL SURGERY
Tran Huu Vinh, Nguyen Hong Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 241 - 247
Objectives: To compare the analgesic effects pain of the tiltration of combinations morphine and Ketamine
and morphine alone in patients after abdominal surgery.
Methods: a control and exprimetal study was conducted on 120 patients after abdominal surgery, divided
into three groups, each group of 40 patients in Anesthesiology Health Bach Mai Hospital from 3/2010 to
9/2010.
Results: Reduction of consumption morphine in the tiltration (12.35 ± 4.99 mg in group II, 12.35 ± 5.36 mg
in group III with 15.35 ± 5.30 mg in group I), increase the success of tiltration (92.5% in group II, 65% in group
III compared with 60% in group I) and a significant reduction in Perfalgan dose used immediately after the
tiltration (0.10 ± 0.30 g in group II, 0.32 ± 0.47 g in group III compared 0.35 ± 0.48 g in group I.
Conclusions: combination of morphine and the low-dose ketamine in the ratio 1:1 has good pain relief so
reduces the total dose of morphine consumed in the tiltration, thus increases the success of the tiltration and
significantly reduced additive analgesic dose with low incidence of complications.
Keywords: ketamin, morphin, abdominal surgery
* Khoa ngoại bệnh viện Bạch Mai
Tác giả liên hệ: TS.Bs Trần Hữu Vinh ĐT: 04.8686988 – 2301 Email: tranvinhknbm@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 242
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm đau sau mổ là một trong các biện
pháp điều trị cơ bản sau phẫu thuật. Giảm đau
sau mổ tốt giúp BN tránh được nhiều biến
chứng sau mổ, nhất là biến chứng về hô hấp,
tim mạch, nội tiết, không những thế nó còn
nâng đỡ cả tinh thần, giúp BN nhanh chóng
lấy lại cân bằng tâm lý sau mổ, sớm vận động
trở lại và giảm thời gian nằm viện(2). Dò liều
bằng morphin là phương pháp được sử dụng
ở trong nước cũng như trên thế giới(3,6). Đây là
phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong giảm đau sau mổ vì cho phép kiểm soát
đau ngay và hạ ngưỡng đau xuống thấp, tạo
điều kiện cho các thuốc giảm đau dùng sau đó
đạt được hiệu quả. Morphin tuy được dùng
phổ biến cho giảm đau sau mổ nhưng gần đây
người ta thấy hiện tượng tăng nhu cầu về liều
và kháng với morphin ở các BN tăng cảm giác
đau sau mổ. Ketamin với liều thấp có tác dụng
ức chế receptor N-Methyl-D-Aspartate
(NMDA) nên giúp giảm hiện tượng quen
thuốc của morphin. Vai trò của ketamin về cải
thiện chất lượng giảm đau và làm giảm liều
thuốc họ morphin cũng đã được đề cập trong
nhiều nghiên cứu(4,7,9,10). Ở Việt Nam cho đến
nay chưa có nghiên cứu về vai trò của ketamin
dùng phối hợp với morphin trong dò liều để
giảm đau sau mổ. Do vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm mục tiêu: so sánh hiệu
quả giảm đau bằng dò liều morphin phối hợp
với ketamin so với morphin đơn thuần ở BN
sau phẫu thuật bụng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
120 BN chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm 40 BN
tại phòng hậu phẫu khoa Gây mê Hồi sức Bệnh
viện Bạch Mai từ tháng 3-9/2010.
Tiêu chuẩn lựa chọn BN
- Các BN sau phẫu thuật bụng với đường mổ
trên rốn hoặc trên và dưới rốn.
- Tuổi: từ 18-60, không phân biệt giới tính,
thể trạng ASA I - II.
- Không có chống chỉ định với morphin và
ketamin.
- Đồng ý hợp tác nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- BN có tiền sử và hiện tại mắc các bệnh thần
kinh hay tâm thần.
- BN có bệnh tim, bệnh phổi cấp và mạn, suy
gan, suy thận, cao huyết áp.
- Tiền sử nghiện morphin hoặc đang dùng
các thuốc giảm đau họ morphin trước mổ.
- Có bệnh đau mạn tính phải điều trị thuốc
giảm đau thường xuyên.
- Có biến chứng về ngoại khoa và gây mê.
- Thở máy kéo dài sau mổ.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng
Tiến hành
- Cách thức chọn BN: BN đủ tiêu chuẩn được
lựa chọn ngẫu nhiên vào 3 nhóm
- Tiến hành nghiên cứu: BN cả 3 nhóm đều
được gây mê nội khí quản theo một phác đồ
chung:
+ Tiền mê: Midazolam 0,04 mg/kg tĩnh mạch,
10-15 phút trước khởi mê
+ Khởi mê: fentanyl 3 mcg/kg, Propofol 2
mg/kg, esmeron 0,8 mg/kg.
+ Duy trì mê: propofol, fentanyl và esmeron.
+ Thoát mê: Sau mổ BN được chuyển về
phòng hồi tỉnh, theo dõi 15 phút/1lần (mạch,
huyết áp, tần số thở, SpO2), trung hòa thuốc giãn
cơ và rút nội NKQ đủ tiêu chuẩn.
- Tiến hành dò liều giảm đau sau mổ: sau khi
BN tỉnh và đã rút ống NKQ
Dò liều nhóm I: tiêm TM mỗi lần 2 mg
morphin.
Dò liều nhóm II: tiêm TM mỗi lần 2 mg
morphin và 2 mg ketamin.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 243
Dò liều nhóm III: tiêm TM mỗi lần 2 mg
morphin và 4 mg ketamin.
Cả 3 nhóm tiêm TM nhắc lại cách nhau 5
phút cho đến khi điểm VAS ≤4 hoặc điểm an
thần ≥4 với số lần tiêm dò liều ≤10 lần trong 60
phút. Đánh giá các thông số vào thời điểm 5
phút sau mỗi lần tiêm.
- Giảm đau sau dò liều: BN tiếp tục được
theo dõi và điều trị giảm đau trong 24 giờ sau dò
liều. Giảm đau ngay sau dò liều thất bại BN
được truyền 1 g perfalgan TM. Tất cả các BN đau
với điểm VAS>4 thì được điều trị giảm đau tiếp
tục sau dò liều theo phác đồ điều trị tại khoa Gây
mê hồi sức, Bệnh viện Bạch Mai như sau:
perfalgan 1 g x 4 lần truyền TM/24 giờ và
morphin 5 mg x 4 lần tiêm dưới da/24 giờ.
Các chỉ số theo dõi đánh giá
Đánh giá tuổi, giới, chiều cao, cân nặng,
đường mổ, vị trí phẫu thuật, vị trí và số lượng
dẫn lưu, kỹ thuật gây mê.
- Đánh giá hiệu quả giảm đau:
+ Tổng liều morphin dùng dò liều ở 3 nhóm
và 24 giờ sau dò liều.
+ Tổng liều perfalgan dùng ngay sau khi kết
thúc dò liều và 24 giờ sau dò liều ở cả 3 nhóm.
+ Số BN được dò liều thành công và thất bại.
+ Đánh giá mức độ đau theo thang điểm
VAS trong và sau dò liều
- Đánh giá tần số thở, nhịp tim, huyết áp,
SpO2 ở các thời điểm lúc dò liều và trong 24 giờ
sau dò liều.
+ Đánh giá các tác dụng phụ lúc dò liều và
trong 24 giờ đầu sau mổ:
+ Đánh giá an thần theo thang điểm Ramsay
ở các thời điểm trong và sau dò liều(8)
Bảng 1: Thang điểm Ramsay(8)
Điểm Triệu chứng
1 Lo sợ hoặc vật vã hoặc cả hai
2 Cộng tác, định hướng và nằm yên
3 Đáp ứng với mệnh lệnh
4 Đáp ứng nhanh với các kích thích
5 Đáp ứng chậm với các kích thích
6 Không đáp ứng với các kích thích
- Thước đo độ đau VAS(1):
Hình tượng E (tương ứng 0 điểm): không
đau.
Hình tượng D (tương ứng 1-3 điểm): đau ít.
Hình tượng C (tương ứng 4-6 điểm): đau
vừa.
Hình tượng B (tương ứng 7-8 điểm): đau
nhiều.
Hình tượng A (tương ứng 9-10 điểm): đau
dữ dội.
Hình 1: Thước VAS
Phân tích số liệu
Bằng phần mềm SPSS 15.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm phân bố về tuổi, giới, chiều cao,
cân nặng của BN nghiên cứu.
Bảng 2: Phân bố về giới
Nhóm BN
Giới
Nhóm I Nhóm II Nhóm III p
SL TL% SL TL% SL TL%
>0,05 Nam 21 52,5 24 60 23 57,5
Nữ 19 47,5 16 40 17 42,5
Tỷ lệ nam/nữ của 3 nhóm nghiên cứu khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3: Tuổi, chiều cao, cân nặng
Nhóm
BN
Đặc điểm
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
p X ±
SD
Min-
Max
X ±
SD
Min-
Max
X ±
SD
Min-
Max
Tuổi
(năm)
45,98±
9,58
22-60
45,23±
10,13
26-60
48,40±
7,17
32-60
>0,05
Chiều cao
(cm)
159,6±
6,35
147-
178
160,65
±6,35
150-
177
161,1±
5,70
150-
174
Cân nặng
(kg)
48,4±7,
7
35-65
49,52±
7,29
37-78
47,60±
6,76
34-67
Tuổi trung bình của 3 nhóm BN nghiên cứu
khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 244
tuổi thấp nhất là 22 tuổi, tuổi cao nhất 60 tuổi.
Chiều cao của 3 nhóm BN nghiên cứu khác
nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Cân nặng trung bình của 3 nhóm là tương
đương nhau (p>0,05), cân nặng thấp nhất là 34 kg
và cao nhất là 67 kg.
Đặc điểm về phẫu thuật và gây mê
Đường mổ
Bảng 4: Phân bố về đường mổ (n=40)
Nhóm BN
Đường
mổ
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
p
SL TL% SL TL% SL TL%
Trên và dưới rốn 10 25 9 22,5 4 10
>0,05
Trắng giữa trên
rốn
28 70 29 72,5 35 87,5
Dưới sườn phải
hoặc trái
0 0 2 5 0 0
Đường trắng bên 2 5 0 0 1 2,5
Sự phân bố về đường mổ của 3 nhóm BN
trong nghiên cứu của chúng tôi là tương đương
nhau (p>0,05), chủ yếu là đường mổ trắng giữa
trên rốn chiếm tỷ lệ cao nhất 70%.
Vị trí phẫu thuật
Sự phân bố về cách thức phẫu thuật của 3
nhóm tương đối đều nhau (p>0,05). Số BN ở cả 3
nhóm được mổ cắt dạ dày chiếm tỷ lệ lớn nhất ở
nhóm I là 17,5% (7 BN), của nhóm II là 22,5 (9
BN), và của nhóm III là 35% (14 BN), sau đến là
phẫu thuật nối vị tràng, nối mật ruột và lấy sỏi
tuỵ. Đại đa số các BN đều mổ bụng với đường
mổ dài trên rốn nên gây đau nhiều sau mổ.
Vị trí và số lượng dẫn lưu
Phân bố về vị trí và số lượng dẫn lưu của 3
nhóm là tương đương nhau với p>0,05. Đại đa số
BN đều có 1 dẫn lưu: ở nhóm I là 70%, ở nhóm II
là 65% và ở nhóm III là 62,5%. Số lượng BN có 3
dẫn lưu chiếm 2,5% trong nghiên cứu của chúng
tôi. Số lượng dẫn lưu của nhóm I là 1,08 ± 0,61,
của nhóm II là 0,98 ± 0,59, và của nhóm III là 0,98
± 0,62. Số lượng dẫn lưu nhiều nhất là 3, thấp
nhất là 0.
Kỹ thuật gây mê hồi sức
Tất cả các BN trong 3 nhóm nghiên cứu đều
được gây mê theo một phác đồ chung. Liều
lượng thuốc tiền mê midazolam, thuốc mê TM
propofol, thuốc giãn cơ esmeron và thuốc giảm
đau fentanyl là tương đương nhau ở cả 3 nhóm
nghiên cứu (p>0,05).
Hiệu quả giảm đau của dò liều
Lượng morphin tĩnh mạch dùng trong dò liều
Bảng 5: Lượng morphin (mg) trong dò liều
Tổng lượng
morphin (mg) X ± SD
Min-Max P
Nhóm I (1) 15,35±5,30 4-20
Nhóm II (2) 12,30±4,99 2-20 P2-1<0,05
Nhóm III (3) 12,35±5,36 2-20 P3-1<0,05
Lượng morphin (mg) dùng trong dò liều ở
nhóm II và nhóm III thấp hơn nhóm I với p<0,05.
Liều morphin trong dò liều cao nhất là 20 mg và
thấp nhất là 2 mg.
Lượng thuốc giảm đau perfalgan dùng ngay
sau dò liều
Bảng 6: Lượng thuốc giảm đau perfalgan (g) dùng
ngay sau dò liều
Perfalgan (g)
X ± SD
Min-Max p
Nhóm I (1) 0,35±0,48 0-1 P2-1<0,05
Nhóm II (2) 0,10±0,30 0-1
Nhóm III (3) 0,32±0,47 0-1 P2-3 <0,05
Lượng perfalgan (g) dùng ngay sau dò liều ở
nhóm II thấp hơn nhóm I và nhóm III với p<0,05.
Lượng thuốc giảm đau morphin và perfalgan
dùng trong 24 giờ sau dò liều
Bảng 7: Lượng morphin và perfalgan dùng trong 24
giờ sau dò liều
X ± SD Min - Max
P
Perfalgan (g)
Nhóm I 0,63 ± 0,57 0-2
>0,05
Nhóm II 0,65 ± 0,57 0-2
Nhóm III 0,87 ± 0,85 0-2
Mocphin
(mg)
Nhóm I 4 ± 3,9
0-20
>0,05
Nhóm II 3,75 ± 3,53
0-20
Nhóm III 4,12 ± 3,56 0-20
Lượng perfalgan dùng trong 24 giờ sau dò
liều của 3 nhóm khác biệt không có ý nghĩa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 245
thống kê với p>0,05. Tương tự lượng morphin sử
dụng sau dò liều ở cả 3 nhóm khác biệt không có
ý nghĩa thống kê p>0,05.
Tỷ lệ dò liều thành công và thất bại
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Nhóm 1 Nhóm2 Nhóm 3
Nhóm
Tỷ lệ
Thành công Thất bại
Biểu đồ 1: Tỷ lệ dò liều thành công và thất bại
Tỷ lệ dò liều thành công cao ở nhóm II
(92,5%) so với nhóm I (60%) và nhóm III (65%),
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,05.
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS
Trước khi dò liều điểm đau VAS lúc hít sâu
trung bình của 3 nhóm là 8,68 ± 1,21. Sau 60 phút
dò liều điểm VAS lúc hít sâu trung bình của 3
nhóm giảm thấp còn 5,31 ± 1,25 (p<0,01). Thang
điểm đau VAS trong và 24 giờ sau dò liều ở 2
trạng thái khi nằm nghỉ và khi hít sâu ở các thời
điểm có sự khác nhau nhưng không có ý nghĩa
thống kê p>0,05.
Sự thay đổi về tuần hoàn và hô hấp
Sự thay đổi về nhịp tim, huyết áp tâm thu,
tâm trương, trung bình và sự thay đổi về nhịp
thở, bão hòa ôxy mao mạch trong và 24 giờ sau
dò liều tại các thời điểm của 3 nhóm không có ý
nghĩa thống kê p>0,05.
Các tác dụng không mong muốn trong và
sau dò liều
Phân bố về tác dụng phụ như độ an thần,
nôn, buồn nôn, bí đái, ngứa, ảo giác và kích thích
của 3 nhóm BN là tương đương nhau (p>0,05).
BÀN LUẬN
Bàn luận về hiệu quả giảm đau bằng dò
liều morphin phối hợp với ketamin so với
morphin đơn thuần
Lượng morphin dùng trong dò liều tĩnh mạch
Lượng morphin dùng trong dò liều TM sau
mổ trong nghiên cứu của chúng tôi là 15,35±5,30
mg ở nhóm I, nhóm II là 12,30±4,99 mg so với
nhóm III là 12,35±5,36 mg p<0,05, không có sự
khác biệt thống kê giữa nhóm II và nhóm III.
Như vậy ketamin tăng cường tác dụng giảm đau
của morphin và phối hợp morphin với ketamin
mang lại hiệu quả là giảm liều morphin trong
quá trình dò liều sau phẫu thuật bụng. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết
quả của Kapfer(4), tiến hành dò liều giảm đau ở
77 BN sau phẫu thuật bụng, lượng morphin
dùng cho nhóm BN phối hợp với ketamin là 9±5
mg, trong khi lượng morphin dùng cho nhóm
morphin đơn thuần là 17±10 mg p<0,001. Lượng
morphin dùng trong nhóm morphin phối hợp
với ketamin chỉ bằng xấp xỉ một nửa lượng
morphin dùng trong nhóm morphin đơn thuần,
điều này chứng tỏ sự phối hợp morphin và
ketamin có hiệu quả là giảm đáng kể lượng
morphin dùng trong dò liều giảm đau sau phẫu
thuật bụng. Nghiên cứu của Nesher giảm đau do
BN tự kiểm soát sau mổ ngực trên 58 BN(5) chia
làm 2 nhóm: nhóm I giảm đau bằng morphin
đơn thuần, nhóm II sử dụng morphin phối hợp
với ketamin. Kết quả cho thấy lượng morphin
tiêu thụ ở nhóm phối hợp giảm và chỉ bằng một
nửa lượng morphin tiêu thụ trong nhóm
morphin đơn thuần. Kết quả này phù hợp với
kết quả của chúng tôi, có lẽ vì phẫu thuật lồng
ngực và phẫu thuật bụng là những loại phẫu
thuật gây đau nhiều nhất nên khi morphin phối
hợp với ketamin đã tăng tác dụng giảm đau của
morphin và nhờ vậy mang lại hiệu quả giảm liều
morphin sử dụng sau mổ.
Lượng thuốc giảm đau perfalgan dùng lúc kết
thúc dò liều
Ngay sau khi dò liều kết thúc với 20 mg
morphin đơn thuần hoặc 20 mg morphin phối
hợp với 20 mg ketamin, nếu BN vẫn còn đau với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 246
điểm VAS hít sâu>4, sẽ được truyền thêm 1 g
perfalgan TM. Vì vậy lượng perfalgan dùng lúc
kết thúc dò liều cũng phản ánh số lượng BN còn
đau đáng kể (VAS>4) của 3 nhóm nghiên cứu.
Lượng perfalgan tiêu thụ ở nhóm II thấp hơn
nhóm I và nhóm III: Nhóm II là 0,10±0,30 g so với
nhóm I là 0,35±0,48 g và nhóm III là 0,32±0,47 g.
Điều này có thể giải thích là phối hợp liều
morphin và ketamin theo tỷ lệ 1:1 cho một lần
tiêm dò liều cho hiệu quả giảm đau cao nhất và
lượng perfalgan tiêu thụ lúc dò liều thấp nhất.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương
đương với kết quả nghiên cứu của Nesher(5), sử
dụng diclofenac 75 mg tiêm bắp thay vì truyền
1g perfalgan TM khi điểm VAS>4 sau dò liều cho
2 nhóm BN mổ ngực, kết quả nhóm sử dụng
morphin phối hợp với ketamin tiêu thụ lượng
diclofenac ít hơn nhóm morphin đơn thuần 70%.
Bàn luận về thang điểm đau VAS
BN sau phẫu thuật bụng thường rất đau,
trước khi dò liều điểm đau VAS lúc hít sâu trung
bình của 3 nhóm là 8,68. Sau 60 phút dò liều
điểm VAS lúc hít sâu trung bình của 3 nhóm
giảm thấp còn 5,31. Điều đó cho thấy hiệu quả rõ
ràng của phương pháp dò liều được thực hiện
trong nghiên cứu của chúng tôi. Điểm VAS
trung bình ở nhóm có phối hợp ketamin thấp
hơn ở nhóm sử dụng morphin đơn thuần ở các
thời điểm nghiên cứu nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này của
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của
Subramaniam(9) được đề về giảm đau phối hợp
morphin với ketamin liều thấp tiến hành sau mổ
do BN tự kiểm soát.
Bàn luận về thành công và thất bại trong dò
liều
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 87 BN
chiếm 72,5% trong cả 3 nhóm được dò liều giảm
đau thành công với điểm VAS≤4. Đặc biệt ở
nhóm II có tỷ lệ dò liều thành công cao nhất
chiếm tỷ lệ 92,5% so với nhóm I (60%) và nhóm
III (65%). Tỷ lệ dò liều thành công cao ở nhóm II
chứng tỏ phối hợp morphin với ketamin theo tỷ
lệ liều 1:1 cho hiệu quả giảm đau cao nhất. Tỷ lệ
dò liều thành công ở nhóm II của chúng tôi
tương tự với kết quả trong nghiên cứu của
Kapfer(4) về dò liều giảm đau sau mổ bụng ở 77
BN chia làm 3 nhóm: nhóm morphin đơn thuần
(21BN), nhóm morphin phối hợp với ketamin
(22BN), nhóm morphin phối hợp với nefopam
(22BN). Tỷ lệ dò liều thành công của Kapfer(4) ở
nhóm mocphin phối hợp với ketamin và
mocphin phối hợp nefopam là 100%, trong khi
dò liều ở nhóm morphin đơn thuần tỷ lệ thành
công chỉ đạt 81% (17/21). Tỷ lệ dò liều thành
công của chúng tôi trong các nhóm thấp hơn
nghiên cứu của Barbara, có lẽ do đặc điểm phẫu
thuật của BN chúng tôi là mổ mở với vết mổ kéo
dài trên 15 cm gây đau sau mổ nhiều hơn là các
phẫu thuật nội soi tiêu hóa với vết mổ nhỏ hơn 5
cm trong mổ cắt đại tràng nội soi và mổ cắt thận,
mặt khác trong phác đồ dò liều của Barbara sử
dụng liều morphin (3 mg/1 ml/1 lần tiêm TM)
cao hơn chúng tôi (2 mg/1 ml/1 lần dò liều). Mặc
dù thời gian dò liều trong nghiên cứu của chúng
tôi và của Barbara là như nhau (60 phút).
Tỷ lệ dò liều thất bại ở nhóm morphin đơn
thuần (nhóm I) là cao nhất (40%), nhóm III
(14BN) chiếm 35% và thấp nhất là nhóm II với 3
BN chỉ 7,5%. Sự khác biệt về tỷ lệ dò liều thành
công và thất bại của nhóm II so với 2 nhóm còn
lại là có ý nghĩa thống kê. Khi phân tích nguyên
nhân thất bại trong lúc dò liều chúng tôi thấy ở
nhóm morphin đơn thuần dò liều thất bại là do
BN tăng nhạy cảm đau và kháng với liều
morphin tĩnh mạch thông thường mặc dù đă
tăng gấp đôi liều (20 mg) mà BN vẫn đau và có
điểm VAS trên 4. Trong nhóm III dò liều thất bại
với 14 BN cao gấp 3 lần so với nhóm II. Nguyên
nhân dò liều thất bại ở nhóm III là BN bị an thần
quá mức nên không thể hợp tác dò liều thành
công khi mà phương pháp đánh giá cường độ
đau cần đến sự tỉnh táo hoàn toàn.
Sự thay đổi về tuần hoàn và hô hấp
Sự thay đổi về nhịp tim, huyết áp tâm thu,
tâm trương, trung bình và sự thay đổi về nhịp
thở, bão hòa oxy mao mạch trong và sau dò liều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 247
tại các thời điểm không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Phương pháp dò liều này ít làm thay
đổi tuần hoàn và hô hấp của BN.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu hiệu quả giảm đau bằng dò
liều morphin phối hợp với ketamin so với nhóm
morphin đơn thuần ở 120 BN phẫu thuật ổ bụng
được chia làm 3 nhóm: nhóm sử dụng morphin
đơn thuần, nhóm morphin phối hợp với ketamin
với tỷ lệ 1:1 và nhóm morphin phối hợp với
ketamin với tỷ lệ 1:2 tại khoa Gây mê Hồi sức
Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi thấy rằng phối
hợp morphin với ketamin liều thấp trong dò liều
với tỷ lệ 1:1 đạt hiệu quả giảm đau tốt làm giảm
tổng lượng morphin tiêu thụ trong 60 phút dò
liều, tăng tỷ lệ dò liều thành công và giảm đáng
kể lượng thuốc giảm đau sử dụng ngay sau dò
liều và phương pháp này có ít tác dụng phụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bodian CA, Freedman G, Hossain S, Eisenkraft JB, Beilin Y
(2001). The visual analog scale for pain: clinical significance in
postoperative patients. Anesthesiology, 95 (6), pp.1356-1361.
2. Chin. ML (2005). Acute pain management. Annual meeting
refresher course lecture, ASA: pp.222.
3. Himmelseherb S, Durieux ME (2005). Ketamine for
perioperative pain management. Anesthesiology, vol 102:
pp.211-220.
4. Kapfer B, Alfonsi P, Guignard B, Sessler DI, Chauvin M
(2005). Nefopam and ketamine comparably enhance
postoperative analgesia. Anesth Analg, 100 (1): pp.169-174.
5. Nesher N, Serovian I, Marouani N, Chazan S, Weinbroum AA
(2008). Ketamine spares morphine cosumption after
transthoracic lung and heart surgery without adverse
hemodynamic effect. Pharmacol Res, Res, Jul, 58 (1): pp.38-44.
6. Nguyễn Văn Thắng (2003). Giảm đau sau mổ hàm mặt bằng
phương pháp chuẩn liều morphine. Luận văn chuyên khoa
cấp 2, Trường Đại học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Hồng Thuỷ (2005). Nghiên cứu tác dụng giảm đau
dự phòng sau mổ bụng trên của ketamine liều thấp tiêm lúc
khởi mê. Luận văn thạc sỹ y học, 2005, Trường Đại học Y Hà
Nội.
8. Stawicki SP (2007). Sedation scales: Very useful, very
underused. Scientist, King of Prussia, Pa, Usa icu Corner,
Vol.1, No.2: pp 10-12.
9. Subramaniam K, Subramaniam B, Steinbrook RA (2004).
Ketamine as adjuvant analgesic to opiods: a quantitative and
qualitative systematic review. Anasth analg, 99 (2): pp 482-
495.
10. Weinbroun A (2003). A single small dose of postoperative
ketamine provides rapid and sustained improvement in
morphine–analgesia in the presence of morphine resistant
pain. Anesth Analg, 96 (3): pp 789-795.
Ngày nhận bài báo: 05/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 241_247_9671.pdf