So sánh glucose huyết, c‐peptide và bilan lipid trước và sau ăn bún miến trên người tình nguyện khỏe mạnh

Đặt vấn đề: Glucid là thành phần chính gây tăng glucose huyết và triglycerid huyết sau ăn. Sự gia tăng

glucose huyết sau ăn và dao động glucose huyết trong ngày được xem là nguyên nhân gây nên những biến

chứng mạn tính của bệnh đái tháo đường.

Mục tiêu: So sánh mức tăng glucose huyết và tải carbohydrate (được đánh giá qua tình trạng tăng

triglyceride) sau ăn giữa các sản phẩm tùy chọn như bún, miến và gạo thông thường.

Phương pháp:Thử nghiệm lâm sàng có can thiệp trên 108 đối tượng tình nguyện không bị đái tháo đường.

Kết quả: Glucose huyết hai giờ sau ăn chế độ ăn miến và bún khô thấp hơn glucose huyết hai giờ sau ăn chế

độ ăn với cơm nấu từ gạo thông thường có ý nghĩa thống kê. Chế độ ăn với bún khô ít gây tăng glucose huyết

sau ăn nhất. Nồng độ C‐peptide sau ăn với chế độ ăn bún và miến khô thấp hơn nồng độ C‐peptide với chế độ ăn

cơm nấu bằng gạo thông thường.

pdf4 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu So sánh glucose huyết, c‐peptide và bilan lipid trước và sau ăn bún miến trên người tình nguyện khỏe mạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 464 SO SÁNH GLUCOSE HUYẾT, C‐PEPTIDE VÀ BILAN LIPID TRƯỚC VÀ SAU  ĂN BÚN MIẾN TRÊN NGƯỜI TÌNH NGUYỆN KHỎE MẠNH  Nguyễn Viết Quỳnh Thư*, Trần Ngọc Minh**, Lê Huy Hùng*, Lâm Vĩnh Niên**, Trần Quang Khánh*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Glucid là thành phần chính gây tăng glucose huyết và triglycerid huyết sau ăn. Sự gia tăng  glucose huyết sau  ăn và dao động glucose huyết  trong ngày  được xem  là nguyên nhân gây nên những biến  chứng mạn tính của bệnh đái tháo đường.   Mục  tiêu:  So  sánh mức  tăng  glucose  huyết  và  tải  carbohydrate  (được  đánh  giá  qua  tình  trạng  tăng  triglyceride) sau ăn giữa các sản phẩm tùy chọn như bún, miến và gạo thông thường.   Phương pháp:Thử nghiệm lâm sàng có can thiệp trên 108 đối tượng tình nguyện không bị đái tháo đường.   Kết quả: Glucose huyết hai giờ sau ăn chế độ ăn miến và bún khô thấp hơn glucose huyết hai giờ sau ăn chế  độ ăn với cơm nấu từ gạo thông thường có ý nghĩa thống kê. Chế độ ăn với bún khô ít gây tăng glucose huyết  sau ăn nhất. Nồng độ C‐peptide sau ăn với chế độ ăn bún và miến khô thấp hơn nồng độ C‐peptide với chế độ ăn  cơm nấu bằng gạo thông thường.   Kết luận: miến và bún khô có thể góp phần đa dạng hóa chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường và giúp  giảm tình trạng tăng glucose huyết sau ăn.  Từ khoá: Glucose huyết, C‐peptide, bilan lipid, đái tháo đường, bún miến.  ABSTRACT  COMPARISION OF BLOOD GLUCOSE, C‐PEPTIDE AND LIPID PROFILE   ON HEALTHY VOLUNTEERS BEFORE AND AFTER CONSUMING COMMON RICE   AND VERMICELLI OR RICE NOODLE  Nguyen Viet Quynh Thu, Tran Ngoc Minh, Le Huy Hung, Lam Vinh Nien, Tran Quang Khanh   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 464 ‐ 467  Background:  Carbohydrates  are  the  major  contributor  to  the  rise  of  postprandial  blood  glucose  and  triglyceride levels. Blood glucose levels after meal and fluctuations of blood glucose have been reported to induce  chronic complications of diabetes.   Objective  and  method: We  conducted  this  research  to  compare  the  rise  of  blood  glucose  levels  and  carbohydrate loads (evaluated by the rise of blood triglyceride levels) before and after meals with common rice and  rice noodle or vermicelli. A total of 108 participants volunteered into the trial.  Result: Postprandial blood glucose levels after meals with vermicelli and rice noodle were significantly lower  than  those with  common  rice.  The most modest  increase  in  postprandial  blood  glucose  levels was  found  in  subjects with rice noodle. C‐peptide levels were lower after meals with rice noodle and vermicelli and rice noodle  compared with normal rice.   Conclusion: Vermicelli and rice noodle can be applied  in diabetic diets to restrict the rise of postprandial  blood glucose.  Keywords: blood glucose, C‐peptide, lipid profile, diabetes, vermicelli, rice noodle.   * Bệnh viện Nguyễn Tri Phương,   ** Bộ môn Hóa Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Viết Quỳnh Thư     ĐT: 0988802216   Email: bsquynhthu@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nội tiết 465 MỞ ĐẦU  Dinh dưỡng là một thành tố không thể thiếu  trong điều trị bệnh đái tháo đường. Trong khẩu  phần dinh dưỡng dành cho bệnh nhân đái tháo  đường,  lượng glucid  thường chiếm khoảng 50‐ 55% tổng nhu cầu cơ bản. Tuy nhiên glucid lại là  thành  phần  chính  gây  tăng  glucose  huyết  và  triclycerid sau ăn. Sự gia tăng glucose huyết sau  ăn  và  dao  động  glucose  huyết  trong  ngày  lại  được xem  là nguyên nhân gây nên những biến  chứng mạn tính của bệnh đái tháo đường thông  qua quá trình sản xuất ra các gốc tự do(1). Do đó,  việc  thay  đổi  chất  lượng và  thành phần glucid  cũng  là một  vấn  đề  cần  được  quan  tâm  trong  bữa ăn hằng ngày. Tại Á châu nói chung và Việt  Nam nói riêng, gạo và các sản phẩm chế biến từ  gạo vẫn được xem là nền tảng trong chế độ dinh  dưỡng.  Nhằm mục  đích  làm  giảm  tình  trạng  tăng glucose và triglyceride huyết sau ăn, nhiều  loại gạo khác nhau (ví dụ gạo lứt) cũng đã được  khuyến  cáo  sử  dụng  trong  bữa  ăn  của  bệnh  nhân đái tháo đường như một lựa chọn thay thế  cho gạo thông thường(2,3). Để góp phần đa dạng  hóa sự lựa chọn cho bệnh nhân, nhiều sản phẩm  chế  biến  từ  gạo  như  bún, miến  cũng  được  đề  nghị trong khẩu phần glucid.   Mặc dù đã được sử dụng khá rộng rãi, đến  nay vẫn chưa có một báo cáo nào so sánh mức  tăng  glucose  huyết  và  tải  carbohydrate  (được  đánh giá qua tình trạng tăng triglyceride) sau ăn  giữa các sản phẩm  tùy chọn như bún, miến và  gạo  thông  thường. Vì vậy  chúng  tôi  tiến hành  nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp số liệu  cho  các  chuyên  gia dinh dưỡng  có  thể  tư  vấn  giúp  bệnh  nhân  đa  dạng  hóa  chế  độ  ăn  hằng  ngày để nâng cao chất lượng cuộc sống và chất  lượng điều trị bệnh đái tháo đường.   Mục tiêu nghiên cứu  Mục  tiêu nghiên  cứu  là  so  sánh  tình  trạng  tăng glucose và dung mạo  lipid huyết  trước và  sau ăn giữa chế độ ăn dùng gạo  thông  thường  và  chế  độ  ăn  dùng  bún  hoặc miến  làm  thành  phần glucid trên các đối tượng khỏe mạnh bình  thường không bị đái tháo đường.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Chúng tôi tiến hành thử nghiệm lâm sàng có  can thiệp trên 108 đối tượng tình nguyện không  bị đái tháo đường. Các đối tượng tham gia thử  nghiệm  là nhân viên y  tế  tại các Khoa Nội  tiết,  Khoa Nhi và nhân viên  tại Bệnh viện Nguyễn  Tri Phương đã được thăm khám sức khỏe định  kỳ và chứng minh  là không mắc bệnh đái  tháo  đường. Các  đối  tượng  tham gia nghiên  cứu  sẽ  được cho ăn ba bữa ăn sáng với tổng năng lượng  như nhau. Thành phần glucid: lipid: protid cũng  được phân bố  theo chế độ ăn chuẩn. Ngày  thứ  nhất thành phần glucid sẽ  là gạo thông thường  (cơm), ngày thứ hai thành phần glucid sẽ là bún  khô và ngày thứ ba thành phần glucid sẽ được  thay  thế bằng miến khô với  cùng  trọng  lượng.  Glucose huyết, C‐peptide, cholesterol toàn phần,  HDL‐C,  LDL‐C  và  triglyceride  sẽ  được  xét  nghiệm vào  lúc đói và hai giờ sau khi ăn bằng  máu  tĩnh mạch. Các mẫu  xét  nghiệm  sẽ  được  tập trung và phân tích tại Trung tâm Chẩn đoán  Y khoa MEDIC. Chúng  tôi sử dụng phần mềm  SPSS 11.0 để phân  tích các số  liệu  thống kê. Sự  khác biệt giữa các trị số trung bình của các biến  số glucose huyết, C‐peptide, cholesterol, HDL‐C,  LDL  và  triglyceride  sẽ  được  kiểm  định  bằng  phép kiểm Paired T‐test.  KẾT QUẢ  Có 108 đối tượng tình nguyện tham gia thử  nghiệm bao gồm 18 nam và 90 nữ. Độ tuổi trung  bình  là 37,2 ± 11,5  tuổi, chiều cao  trung bình  là  157,7 ± 6,7 cm, và cân nặng trung bình là 54,3 ±  9,5 kg. Chỉ số khối cơ thể trung bình của nhóm  đối tượng tham gia nghiên cứu là 22,8 ± 1,7. Các  kết  quả  glucose  huyết  đói, C‐peptide  và dung  mạo  lipid  trong ba ngày  thử nghiệm  lâm  sàng  được trình bày trong các bảng sau.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 466 Bảng 1: So sánh glucose huyết, C‐peptide, dung mạo  lipid trước và hai giờ sau ăn chế độ ăn với thành phần  glucid là cơm nấu bằng gạo thông thường (N1).  Biến số Trước ăn (đói) Hai giờ sau ăn Đường huyết (mmol/l) 4,84 ± 0,86 5,58 ± 1,14 C-peptide (ng/ml) 2,11 ± 1,14 5,49 ± 2,30 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 4,0 ± 0,94 5,17 ±1,17 HDL-C (mmol/l) 1,06 ± 0,23 1,52 ± 0,27 LDL-C (mmol/l) 2,50 ± 0,87 3,04 ± 0,95 Triglyceride (mmol/l) 1,70 ± 0,65 1,76 ± 1,88 (Các số liệu được trình bày theo trung bình ± độ lệch  chuẩn)  Bảng 2: So sánh glucose huyết, C‐peptide, dung mạo  lipid trước và hai giờ sau ăn chế độ ăn với thành phần  glucid là miến (N2).  Biến số Trước ăn (đói) Hai giờ sau ăn Đường huyết (mmol/l) 4,88 ± 0,75 5,04 ± 0,90 C-peptide (ng/ml) 2,27 ± 1,42 3,79 ± 0,12 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 5,47 ± 1,27 5,39 ± 1,21 HDL-C (mmol/l) 1,44 ± 0,33 1,44 ± 0,31 LDL-C (mmol/l) 3,26 ± 1,02 3,16 ± 1,0 Triglyceride (mmol/l) 2,03 ± 0,54 2,03 ± 2,01 (Các số liệu được trình bày theo trung bình ± độ lệch  chuẩn)  Bảng 3: So sánh glucose huyết, C‐peptide, dung mạo  lipid trước và hai giờ sau ăn chế độ ăn với thành phần  glucid là bún khô (N3).  Biến số Trước ăn (đói) Hai giờ sau ăn Đường huyết (mmol/l) 4,95 ± 0,71 4,83 ± 1,12 C-peptide (ng/ml) 2,11 ± 0,17 4,05 ± 2,41 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 5,30 ± 1,32 5,18 ± 1,25 HDL-C (mmol/l) 1,25 ± 0,33 1,21 ± 0,33 LDL-C (mmol/l) 3,16 ± 0,90 3,97 ± 0,33 Triglyceride (mmol/l) 1,59 ± 1,69 1,79 ± 1,56 (Các số liệu được trình bày theo trung bình ± độ lệch chuẩn)  Bảng 4: So sánh glucose huyết, C‐peptide, dung mạo  lipid hai giờ sau ăn giữa chế độ ăn với thành phần  gạo thông thường và miến.  Biến số Gạo (N1) Miến (N2) p Đường huyết (mmol/l) 5,58 ± 1,14 5,04 ± 0,90 0 C-peptide (ng/ml) 5,49 ± 2,30 3,79 ± 0,12 0 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 5,17 ±1,17 5,39 ± 1,21 0 HDL-C (mmol/l) 1,52 ± 0,27 1,44 ± 0,31 0,002 Biến số Gạo (N1) Miến (N2) p LDL-C (mmol/l) 3,04 ± 0,95 3,16 ± 1,0 0,016 Triglyceride (mmol/l) 1,76 ± 1,88 2,03 ± 2,01 0 (Các số liệu được trình bày theo trung bình ± độ lệch  chuẩn) (Phép kiểm Paired T‐test)  Bảng 5: So sánh glucose huyết, C‐peptide, dung mạo  lipid hai giờ sau ăn giữa chế độ ăn với thành phần  gạo thông thường và bún khô.  Biến số Gạo (N1) Bún khô (N3) p Đường huyết (mmol/l) 5,58 ± 1,14 4,83 ± 1,12 0 C-peptide (ng/ml) 5,49 ± 2,30 4,05 ± 2,41 0 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 5,17 ±1,17 5,18 ± 1,25 0,925 HDL-C(mmol/l) 1,52 ± 0,27 1,21 ± 0,33 0 LDL-C (mmol/l) 3,04 ± 0,95 3,97 ± 0,33 0,475 Triglyceride (mmol/l) 1,76 ± 1,88 1,79 ± 1,56 0,68 (Các số liệu được trình bày theo trung bình ± độ lệch  chuẩn) (Phép kiểm Paired T‐test)  BÀN LUẬN  Nhóm đối tượng tham gia nghiên cứu ở độ  tuổi  lao  động,  không  béo  phì.  Các  chỉ  số  glucose huyết khi đói và C‐peptide  tương đối  đồng nhất trong các ngày cho ăn chế độ glucid  khác nhau. Glucose huyết hai giờ  sau  ăn  chế  độ ăn với glucid là miến và bún khô thấp hơn  glucose  huyết  hai  giờ  sau  ăn  chế  độ  ăn  với  thành  phần  glucid  là  cơm  nấu  từ  gạo  thông  thường  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Chế  độ  ăn  với  thành  phần  glucid  là  bún  khô  ít  gây  tăng  glucose huyết sau ăn nhất. Điều này cũng phù  hợp khi nồng độ C‐peptide sau ăn với chế độ  ăn  có  thành phần glucid  là bún và miến khô  thấp  hơn  nồng  độ  C‐peptide  với  chế  độ  ăn  cơm nấu bằng gạo thông thường.   Qua kết quả  trên, có  thể áp dụng  để  thay  đổi  thành  phần  glucid  trong  chế  độ  ăn  của  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  để  hạn  chế  tình  trạng tăng đường huyết sau ăn.  KẾT LUẬN  Miến và bún khô có thể được chế biến thành  dạng thực phẩm góp phần đa dạng hóa chế độ  ăn của bệnh nhân đái  tháo đường và bảo đảm  giảm thiểu tình trạng tăng glucose huyết sau ăn.   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nội tiết 467 TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. American  Diabetes  Association  (ADS)  (2001).  “Postprandial  blood glucose” (Consensus Statement). Diabetes Care, 24: 775 –  778.  2. Komindr S, et al (2001). “Effect of long‐term intake of Asian food  with  different  glycemic  indices  on  diabetic  control  and  protein  conservation  in type 2 diabetes patients.”  J Med Assoc Thai, 84  (1):85 – 97 or Lancet, 354: 617 – 621, 1999.  3. Phạm Thị Thu Hương  (2011). “Đánh giá đáp ứng glucose máu  sau bữa ăn có sản phẩm mầm gạo pro‐OH.” Viện Dinh Dưỡng,  Hà Nội.  Ngày nhận bài báo: 11/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013  Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf464_1_1246.pdf
Tài liệu liên quan