Sinh lý học ngƣời và động vật là khoa học nghiên cứu các biểu hiện của sự
sống trên động vật và ngƣời trong mối liên hệ khăng khít với môi trƣờng
xung quanh. Nhiệm vụ của nó là phát hiện, mô tả những hiện tƣợng và
tiến tới giải thích các quy luật về các chức năng của cơ thể, các cơ quan,
các mô, các loại tế bào trong mối quan hệ giữa cơ thể với môi trƣờng
sống, bao gồm môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội. Sinh lý hoc
nghiên cứu về các quy luật của sự chuyển hoá vật chất, hô hấp, tuần hoàn,
bài tiết, hoạt động của cơ, thần kinh, nội tiết tố và các chức năng khác của
cơ thể ngƣời và động vật.
Tuỳ theo nội dung nghiên cứu mà sinh lý học đƣợc phân ra theo nhiều loại
khác nhau.
+ Sinh lý học đại cƣơng: nghiên cứu các quá trình lý- hoá- sinh phổ biến ở
mọi cơ thể động vật và ngƣời, những hiện tƣợng chung chỉ ra sự khác biệt
cơ bản giữa cơ thể “sống” và “không sống”. Chẳng hạn, các hiện tƣợng
trao đổi chất và năng lƣợng để cơ thể sinh trƣởng, phát dục và phát triển.
Các hoạt động phản xạ để cơ thể thích nghi với môi trƣờng sống ở các
vùng sinh thái khác nhau
163 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Sinh lý người và động vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì glucid là nguồn năng lƣợng dễ kiếm và rẻ tiền
nhất, lại đƣợc hấp thu và tiêu hoá dễ dàng, với một khối lƣợng lớn. Khi cơ
thể không có đủ glucid thì sự oxy hoá quá nhiều mỡ để có năng lƣợng cho
hoạt động sống sẽ làm sản sinh nhiều thể ceton gây toan huyết. Khi không
đủ glucid, cơ thể phân huỷ nhiều protein tổ chức, sinh ra nhiều amoniac,
độc đối với cơ thể. Một gam glucid khi đƣợc oxy hoá cho 4,1 kcalo.
6.2.1.3. Tóm tắt vài điểm về chuyển hoá glucid
- Giai đoạn I: Dị hoá polysaccharid thành glucose.
- Giai đoạn II: Dị hoá glucose đến acid pyruvic gọi là đƣờng phân (yếm
khí). Đƣờng phân bao gồm cả dị hoá glucose lẫn glycogen đến a. pyruvic.
Glucose đƣợc phosphoryl hoá (nhờ enzyme hexokinase) thành G-
6-P, glycogen đƣợc phân huỷ thành G-1-P rồi cũng thành G-6-P. Từ G-6-P
trở xuống, dị hoá glucose và glycogen y hệt nhau.
* Nếu thiếu O2 thì a. pyruvic bị khử thành acid lactic (C3H6O3).
* Nếu đủ O2 thì a.pyruvic sẽ tiếp tục bị oxy hoá cho CO2 và H2O.
- Giai đoạn III là dị hoá oxy hoá a.pyruvic thành CO2 và H2O (chu
trình Krebs), đây là giai đoạn chuyển hoá cuối cùng, chung cho cả lipid và
protid. Dị hoá ái khí (có tham gia của oxy), acid pyruvic cho rất nhiều
năng lƣợng.
6.2.1.4. Điều hoà chuyển hoá glucid
Nói đến điều hoà chuyển hoá glucid, thƣờng là nói về sự điều hoà mức
đƣờng trong máu (đƣờng huyết). Bình thƣờng mức đƣờng huyết dao động
từ 80 - 100mg %. Nếu mức đƣờng huyết vƣợt quá 120mg % thì gọi là tăng
đƣờng huyết, còn khi mức đƣờng huyết thấp hơn 60mg % thì gọi là hạ
đƣờng huyết. Mức đƣờng huyết đƣợc điều hoà do cơ chế thần kinh thể
dịch phức tạp. Hệ thần kinh thông qua hệ giao cảm tác dụng lên gan, tụy
và thƣợng thận mà điều hoà đƣờng huyết.
120
120
Các kích tố của tuyến nội tiết tác dụng lên nhiều khâu của chuyển
hoá glucid. Hormon của vỏ tuyến thƣợng thận (glucocorticoid) cũng có
tác dụng làm tăng đƣờng huyết. Các glucocorticoid tác dụng theo hai cơ
chế: giảm mức sử dụng glucose trong các mô và tăng quá trình sinh đƣờng
mới. Glucagon - một hormon của tuyến tụy nội tiết cũng có tác dụng làm
tăng đƣờng huyết giống nhƣ tác dụng của adrenalin. Các hormon khác nhƣ
ACTH, STH, thyroxin cũng tham gia vào quá trình chuyển hoá glucid làm
tăng lƣợng đƣờng trong máu.
Tác dụng ngƣợc lại các hormon kể trên là insulin - một hormon của tuyến
tuỵ nội tiết. Tác dụng của insulin là làm tăng tính thấm của màng tế bào
đối với glucose, làm hoạt hoá hexokinase và còn là yếu tố cảm ứng tổng
hợp glucose, do đó đẩy nhanh quá trình phosphoryl hoá, tăng chuyển hoá
glucose trong tế bào và làm giảm đƣờng huyết.
Gan có vai trò rất cơ bản trong việc duy trì mức đƣờng huyết. Gan là
nơi sinh glucose mới, tức là glucose hình thành từ các chất không là glucid
(chủ yếu là từ protein).
6.2.2 Chuyển hoá lipid
6.2.2.1.Chuyển hoá lipid trong cơ thể (hình 6.2)
ỐNG TIÊU HOÁ CÁC KHO DỰ TRỮ CHẤT BÉO
Tinh bột Glucose
Các acid béo
Chất béo Chất béo
Glyxerine
CÁC MÔ GAN
Glycogen Glycogen
CO2 + H 2O Glucose
Hình 6.2. Sơ đồ chuyển hoá lipid
121
121
Nguồn lipid (mỡ) của cơ thể là lipid của thức ăn hấp thu ở ruột, ngoài ra
còn một lƣợng lớn lipid và lipoid đƣợc tạo thành ngay trong cơ thể từ
glucid nếu thừa glucid, hoặc có khi cả từ protid. Lipid sau khi hấp thu có
thể theo nhiều con đƣờng:
- Lipid đƣợc oxy hoá hoàn toàn cho CO2, H2O và nhiều năng lƣợng.
Acetat hoạt động (Acetyl CoA) là một chất chuyển hoá trung gian của mỡ
có thể dùng tổng hợp nhiều chất.
- Lipid đƣợc dự trữ dƣới dạng mỡ trung tính. Kho dự trữ mỡ có thể rất
nhiều, tới 10 % khối lƣợng cơ thể (dự trữ glucid chỉ dƣới 0,5 kg). Mỡ dự
trữ nằm trong tế bào lấn chỗ của bào tƣơng, mỡ dự trữ có thể đƣợc lấy vào
trong máu, mỡ (adipocyte) chứa trong các mô đệm dƣới da (bụng, da, gan)
để biến thành glycogen. Mỡ tham gia cấu tạo các tổ chức: mỡ hấp thu và
cholesterid là thành phần chủ yếu của màng tế bào, vào trong cơ thể sẽ
phân phối đi khắp các tổ chức, dùng làm nguyên liệu kiến tạo nhƣ lecithin.
Lecithin có ở sợi thần kinh, các sphingomyelin và cerebrosid có nhiều ở
hệ thần kinh trung ƣơng, các steroid tham gia cấu tạo nhiều kích tố quan
trọng.Mỡ cấu tạo không biến đổi đáng kể khi ta nhịn đói, gọi là thành phần
hằng định, mỡ dự trữ bị sử dụng khi nhịn đói gọi là thành phần biến đổi.
Nguồn gốc mỡ dự trữ là do từ mỡ ăn vào và từ glucid (lợn béo do nuôi
bằng glucid).
6.2.2.2.Mối liên quan giữa chuyển hoá lipid và glucid
a). Glucid chuyển hoá thành lipid
Ta đã biết glucid ăn vào cơ thể chuyển hoá thành mỡ dự trữ, ta cũng biết
glucid và lipid có một bƣớc chuyển hoá trung gian chung là acid acetic.
Vậy có con đƣờng chuyển hoá glucid qua acid pyruvic và acid acetic
thành acid béo. Con đƣờng chuyển hoá đó đƣợc xúc tiến bởi insulin và bị
ức chế bởi kích tố tiền yên. Triose do dị hoá glucid cũng có thể chuyển
hoá thành glycerol tham gia tổng hợp lipid.
b). Lipid chuyển hoá thành glucid
Glycerol của lipid có thể vào con đƣờng chuyển hoá glucid và xây dựng
glucose hay glycogen. Theo con đƣờng này 100g lipid chỉ chuyển thành
12g glucose của máu. Khi nhịn đói, tỷ lệ chuyển thành glucose có thể cao
hơn.Nghiên cứu bằng đồng vị phóng xạ cho thấy acid acetic (từ mỡ) đƣợc
gan dùng xây dựng glucose. Tuy vậy, con đƣờng chuyển acid béo thành
glucose không rõ rệt, điều này giúp ta hiểu hiện tƣợng thông thƣờng là:
cho động vật (lợn) ăn nhiều glucid để thu hoạch mỡ, thì rõ ràng lợi hơn bất
cứ cơ thể nào tiêu thụ mỡ để cho ta glucid.
122
122
6.2.2.3. Sự phụ thuộc của chuyển hoá lipid đối với glucid
Muốn lipid đƣợc dị hoá hoàn toàn trong gan qua Acetyl CoA thì cần
cung cấp đầy đủ acid oxaloacetic để "xúc tác" cho chu trình Krebs. Lipid
không thể cung cấp acid oxaloacetic vì phản ứng acid pyruvic sang acid
acetic không đảo ngƣợc đƣợc. Vậy nguồn chủ yếu cung cấp acid
oxaloacetic là glucid qua a.pyruvic, ý kiến này đƣợc phát biểu rất hình
tƣợng là "mỡ cháy trên ngọn lửa của glucid". Nhƣ vậy giảm oxy hoá
glucid ở gan gây giảm oxy hoá hoàn toàn acetyl CoA, mà không gây giảm
tốc độ sản xuất acetyl CoA, hơn nữa sự sản xuất acetyl CoA lại tăng vì lúc
này chỉ còn mỡ là nguồn năng lƣợng chủ yếu. Những mảnh 2 carbon là
acetyl CoA rất hoạt động đó không thể tích luỹ đƣợc mà tập hợp thành
acid acetoacetic CH3-CO-CH2-COOH gây ứ đọng các thể ceton.
Tóm lại, mỗi khi tỷ lệ sử dụng glucid so với sự dùng lipid trong
gan bị giảm thấp nhƣ trong bệnh đái tháo đƣờng, khi nhịn đói v.v.. thì đƣa
đến bệnh ceton.
6.2.2.4. Nhu cầu và vai trò sinh lý của lipid
Lipid có giá trị năng lƣợng cao, 1g lipid oxy hoá cho 9,3 Kcal. Mỗi ngày
ngƣời trƣởng thành cần khoảng 100g, khi lao động thể lực nặng nhọc cần
đến 115- 165g lipid. Lớp mỡ dƣới da cũng là lớp cách nhiệt rất tốt giúp ta
chống rét. Lipid còn có tác dụng nuôi dƣỡng và tạo hình. Mỡ tham gia cấu
tạo cơ thể. Mỡ là dung môi hoà tan của nhiều sinh tố quan trọng nhƣ A, D,
E, K...
6.2.2.5. Điều hoà chuyển hoá lipid
Lipid trong cơ thể luôn đƣợc thay đổi do mỡ cũ bị chuyển hoá và
mỡ mới đƣợc thu nhận theo thức ăn . Sự thay đổi lipid trong cơ thể chịu
nhiều ảnh hƣởng khác nhau, trƣớc hết là hệ thần kinh, hệ nội tiết, chức
năng của gan và liên quan với chuyển hoá glucid.
Cấu trúc thần kinh điều hoà chuyển hoá lipid nằm trong vùng dƣới
đồi. Sự điều hoà chuyển hoá lipid của vùng dƣới đồi, có lẽ thông qua hoạt
động của các tuyến nội tiết. Khi tuyến tụy sản xuất ít insulin, quá trình
chuyển hoá glucid giảm, mỡ dự trữ sẽ đƣợc huy động để oxy hoá sinh
năng lƣợng thay cho glucid. Ngƣợc lại, khi tuyến tụy tăng tiết insulin, thì
quá trình chuyển hoá glucid thành mỡ dự trữ lại đƣợc tăng cƣờng. Cortisol
của vỏ tuyến thƣợng thận, hormone tuyến giáp, cũng nhƣ GH và ACTH
của thuỳ trƣớc tuyến yên đều có tác dụng huy động mỡ dự trữ vào quá
trình chuyển hoá. Gan là cơ quan hoạt động mạnh nhất trong chuyển hoá
lipid. Gan là nơi chủ yếu để phân giải và tổng hợp các acid béo,
123
123
phospholipid và cholesterol. Quá trình chuyển hoá lipid cũng có thể bị rối
loạn do trong thức ăn thiếu glucid và nhiều lipid hoặc không đủ các acid
béo cần thiết nhƣ acid linoleic, acid arachidonic. Trong thức ăn có nhiều
cholesterol, cystin, serin, thiamin, biotin cũng có thể gây rối loạn chuyển
hoá lipid, gây tích mỡ trong gan.
6.2.3. Chuyển hoá protein
6.2.3.1.Chuyển hoá các acid amin trong cơ thể (hình 6.3)
Cơ thể không hấp thu đƣợc protid nếu chƣa đƣợc phân huỷ qua
ống tiêu hoá. Acid amin và phần nhỏ olygopeptid đƣợc hấp thu sẽ theo
máu tĩnh mạch cửa vào gan, ở đây chúng đƣợc sử dụng ngay hoặc tạm
thời coi nhƣ chất dự trữ. Sau đó một phần chuyển vào máu đi tới các tế
bào khác, ở đó acid amin sẽ tạo thành chất nguyên sinh mới. Năng lƣợng
cần cho sự tổng hợp do ATP cung cấp. Sự tổng hợp protid ở các tế bào
tiến hành liên tục trong suốt đời sống của sinh vật. Trong giai đoạn cơ thể
đang lớn (ở nhi đồng và thiếu nhi, gia súc non) sự tổng hợp protid diễn ra
rất mạnh, càng về già tổng hợp protid càng giảm.
ỐNG TI ÊU HO Á GAN
Protid Sự khử gốc amin
Các acid amin NH3 Cặn không có nitơ
Urê Glucose
Urê Glycogen
THẬN CÁC MÔ
Protid
Các acid amin
Glycogen
CO2 + H2O
Hình 6.3. Sơ đồ chuyển hoá protid
124
124
Nhờ phƣơng pháp dùng acid amin đánh dấu bằng đồng vị 15N, đã
chứng minh đƣợc rằng protid trong cơ thể luôn nhanh chóng bị phân huỷ
và đƣợc tổng hợp lại.
- Nếu thức ăn chứa acid amin nhiều hơn lƣợng cần thiết để duy trì chất
nguyên sinh, các enzyme của gan sẽ tách nhóm amin khỏi các a.amin đó,
nghĩa là xảy ra hiện tƣợng khử amin (trong gan sẽ xảy ra hiện tƣợng khử
amin). Các enzyme khác kết hợp nhóm amin đã bị tách với khí CO2 tạo
thành urea là chất thải loại của trao đổi chất, urea sẽ chuyển theo máu tới
thận và thải ra ngoài cùng với nƣớc tiểu. Khi cơ thể tăng mức oxy hóa các
acid amin để sản xuất năng lƣợng, mức urea máu sẽ tăng cao. Cắt bỏ gan
trên động vật, con vật sẽ chết vì trúng độc NH3. Thận hoạt động yếu cũng
làm urea máu tăng cao.
- Phần acid amin sau khi đã khử amin là những acid hữu cơ đơn giản
gồm C, H, O đƣợc gan chuyển thành glucose hoặc thành glycogen để sử
dụng nhƣ nguồn năng lƣợng hoặc mỡ dự trữ.
Protein không đƣợc giữ lại hoặc hầu nhƣ không đƣợc giữ lại trong cơ
thể làm chất dự trữ, cơ thể sẽ tiêu thụ protein sau khi đã dùng hết dự trữ
glucid và lipid, đó không phải là protein dự trữ mà là các enzyme và
protein cấu trúc của chính tế bào.
6.2.3.2. Protid toàn diện và khiếm diện - Giá trị sinh học của protid
Protid vào cơ thể theo thức ăn, về mặt sinh học chia làm 2 loại:
toàn diện và khiếm diện.
- Protid toàn diện về mặt sinh học là những protid chứa đủ tất cả các
acid amin cần thiết cho tổng hợp các protid của cơ thể sống. Các acid amin
này cơ thể không tổng hợp đƣợc đủ cho nhu cầu, không thể lấy a.amin
khác thay thế đƣợc, phải đƣợc cung cấp theo thức ăn. Trong thành phần
protid toàn diện cần cho cơ thể đang lớn lên có tám acid amin cần thiết
sau: valin, leucin, isoleucin, threonin, methionin, phenylalanin, tryptophan
và lysin. Ngoài ra còn histidin và arginin, bình thƣờng cơ thể tổng hợp đủ
dùng nhƣng khi nhu cầu cao nhƣ đang lớn thì cần phải cung cấp thêm theo
thức ăn nên có tác giả coi là cần thiết. Từ các acid amin ấy có thể tổng hợp
các acid amin khác, các kích thích tố ...Ví dụ: từ phenylalanin có thể tổng
hợp tyrosin; từ tyrosin có thể tổng hợp các kích thích tố nhƣ kích giáp tố,
adrenalin (epinephrin).
- Protid khiếm diện về mặt sinh học là những protid thiếu một trong
những acid amin mà cơ thể không tổng hợp đƣợc.
125
125
Protid nguồn gốc động vật chứa trong thịt, trứng và sữa là toàn diện
nhất (70-95%), protid có nguồn gốc thực vật không có giá trị bằng, chẳng
hạn bánh mì, ngô (60%). Có vài a.amin có thể thay thế lẫn nhau, ví dụ:
phenylalanin có thể thay thế tyrosin, hai protid khiếm diện cộng lại có thể
tạo thành protid toàn diện.Một vài loại đậu có thể cho protid hoàn hảo.
6.2.3.3. Thăng bằng Nitrogen
Bình thƣờng cơ thể có thăng bằng nitrogen. Nitrogen vào chủ yếu
là do protein ăn vào (95%), còn ra chủ yếu theo đƣờng nƣớc tiểu và phân.
Khi N vào nhiều hơn ra gọi là cân bằng nitrogen dƣơng, ngƣợc lại là cân
bằng nitrogen âm. Muốn duy trì cân bằng nitrogen thì cần cung cấp một
lƣợng tối thiểu protein hoặc acid amin tƣơng đƣơng, trong đó các acid
amin theo tỷ lệ thích hợp và có đủ các acid amin cần thiết.
6.2.3.4. Nhu cầu protein
Cơ thể cần protein ăn vào để sinh trƣởng hoặc để duy trì trọng lƣợng và
thành phần protein của mình. Về giá trị nhiệt lƣợng, 1 gam protein cho
4,1kcalo. Một ngƣời ăn uống đầy đủ một ngày thải ra 12 - 16 gam nitrogen
tƣơng đƣơng với 74 - 90g protein (vì 1g N tƣơng đƣơng 6,25g P). Khi
nhịn đói hoàn toàn vẫn dị hóa protein và cơ thể vẫn thải N nhƣng ngày
càng thải ít dần đi. Khi ăn chế độ có đủ nhiệt lƣợng, chỉ thiếu protein thì
cơ thể cần dị hóa tối thiểu lƣợng protein để tổng hợp các kích tố và các
chất cần thiết khác (nhƣ creatin) nên phân hủy ít protein, mỗi ngày chỉ thải
1,75 - 3,9g N tƣơng đƣơng 10 - 23g Protein. Nhu cầu sinh lý tối thiểu về
protein là lƣợng protein nhỏ nhất đủ duy trì thăng bằng nitrogen trong điều
kiện ăn chế độ đủ nhiệt lƣợng do có glucid và lipid. Định mức protein
hàng ngày đến nay vẫn chƣa có ý kiến thống nhất. Ngƣời ta cho rằng trong
điều kiện bình thƣờng, lƣợng protein cần thiết trong một ngày cho ngƣời
trƣởng thành là 1,5- 2,0g trên 1kg thể trọng, còn trong điều kiện lao động
thể lực nặng nhọc là 3,0- 3,5g trên 1kg thể trọng. Tăng lƣợng protein trên
3,0- 3,5g trên 1kg thể trọng, sẽ gây rối loạn chức năng của hệ thần kinh,
của gan và của thận.
6.2.3.5. Điều hoà chuyển hoá protein
Phá huỷ một số nhân trong vùng dƣới đồi có thể làm tăng mạnh quá
trình bài xuất nitơ theo nƣớc tiểu, chứng tỏ có sự tăng phân giải protein
trong cơ thể. Điều này nói lên rằng có sự điều hoà chuyển hoá protein từ
phía hệ thần kinh. Tuy nhiên chuyển hoá protein đƣợc điều hoà chủ yếu
bởi các hormon của các tuyến nội tiết. Insulin có tác dụng thúc đẩy quá
trình tổng hợp protein qua tăng cƣờng vận chuyển acid amin vào tế bào,
126
126
tăng cƣờng sử dụng glucose ở tế bào, nhờ đó tiết kiệm đƣợc sự sử dụng
các acid amin trong cung cấp năng lƣợng cho cơ thể. Khi thiếu insulin, sự
tổng hợp protein hầu nhƣ bị ngừng lại. Hormone tăng trƣởng GH làm tăng
tổng hợp protein trong tế bào, tăng tích trữ protein trong mô. Testosteron
và estrogen làm tăng tích trữ protein ở mô, đặc biệt là các protein co cơ.
Glucocorticoid làm giảm mạnh protein ở nhiều loại mô, huy động các acid
amin vào quá trình chuyển hoá tạo ra glucid và năng lƣợng. Thyroxin gây
phân giải nhanh protein để lấy năng lƣợng trong trƣờng hợp cơ thể thiếu
glucid và lipid. Nếu thừa glucid, lipid và cả các acid amin, thì thyroxin có
thể giúp chúng tăng tổng hợp protein, đặc biệt là ở các cơ thể đang lớn.
6.2.4.Chuyển hoá các muối khoáng và nƣớc
Sự chuyển hoá nƣớc và các muối khoáng là hai quá trình liên hệ mật thiết
và quan trọng đối với cơ thể.
6.2.4.1. Chuyển hoá các muối khoáng
Vai trò của chất khoáng trong cơ thể rất đa dạng, chủ yếu:
Giữ vai trò quan trọng trong các quá trình tạo hình đặc biệt là tổ chức
xƣơng, xây dựng enzyme, kích thích tố. Duy trì cân bằng toan - kiềm, duy
trì ổn định thành phần các dịch thể và điều hòa áp lực thẩm thấu. Tham gia
chức phận các tuyến nội tiết và nhiều quá trình trao đổi chất. Điều hòa
chuyển hóa muối - nƣớc. Cần thiết cho hoạt động thần kinh, quá trình
đông máu, hấp thu thức ăn, trao đổi khí, các quá trình bài tiết và bài xuất.
Bản thân các chất khoáng không sinh năng lƣợng.
Trong cơ thể có rất nhiều dạng muối khoáng: Ca, P, Mg, Na, K, Cl, Fe,
S, I, Cu, Mn, Co, F, Zn... khoảng 40 nguyên tố hóa học.
Các chất khoáng có mặt trong thực phẩm và cần cho cơ thể ở số lƣợng
tƣơng đối lớn gọi là yếu tố đại lƣợng: Ca, P, Mg, K, N, Cl, S...
Một số nguyên tố vi lƣợng Mn, Cu, Zn, Mo, Bo; vai trò nhiều yếu tố đã
biết rõ, nhiều yếu tố khác còn phải đòi hỏi nghiên cứu thêm.
a. Chuyển hoá calci (Ca) và phospho (P)
Ca và P cần cho hoạt động của hệ thần kinh, chúng có mặt trong cả
xƣơng lẫn răng.
99 % Ca và 77 % P của cơ thể nằm trong xƣơng và răng. Ngƣời lớn cần
0,6- 0,8 g Ca/ngày, trẻ con và phụ nữ có thai cần gấp đôi vì Ca cần cho
xây dựng bộ xƣơng. Phần quan trọng Ca trong cơ thể tồn tại ở dạng muối
của acid phosphoric. Do đó muốn có bộ xƣơng phát triển bình thƣờng phải
127
127
cung cấp cho cơ thể cả Ca, P theo tỷ lệ xác định . Tỷ lệ tối ƣu giữa Ca và P
là 1: 1,5. Tỷ lệ này có trong sữa. Phosphatcalci Ca3(PO4)2 chỉ tạo thành
khi có sinh tố D. Thiếu sinh tố D trẻ con mắc bệnh còi xƣơng.
Chuyển hoá calci còn cần kích tố cận giáp.
Nguồn cung cấp calci phong phú nhất là sữa và trứng, trong sữa
ngoài Ca, còn có P. Sữa rất thuận lợi cho sự xây dựng xƣơng. Một số thực
vật giàu calci nhƣ: xà lách, cà rốt...Cơ thể mỗi ngày cần 1- 2g phospho.
Phần lớn phospho vào cơ thể đƣợc phân bố ở mô xƣơng và mô cơ. Ca, P
cũng bị thải ra theo mồ hôi, nƣớc tiểu, phân.
b. Chuyển hoá Natri và Clo
Na và Cl vào cơ thể nhiều nhất ở dạng muối ăn NaCl.
Na ảnh hƣởng đến sự lớn lên của cơ thể, trong thức ăn thiếu Na ít
lâu, cơ thể sẽ ngừng lớn. Cl- kết hợp với H+ thành HCl của dịch vị. Thiếu
muối ăn, dịch vị sẽ ít tiết hoặc ngừng tiết hẳn. Nhu cầu trung bình 4 - 5g
Na/ngày, tƣơng ứng với 10-12,5g muối ăn đƣợc đƣa vào cơ thể. Da là nơi
tích lũy Na, Cl. Na và Cl ra khỏi cơ thể theo nƣớc tiểu và mồ hôi. Na đào
thải theo mồ hôi không nhiều, tuy nhiên khi nhiệt độ môi trƣờng xung
quanh tăng lên, thì lƣợng natri mất theo mồ hôi rất lớn. Do đó khi nhiệt độ
môi trƣờng xung quanh tăng cao, nên sử dụng dung dịch NaCl ƣu trƣơng
để giảm tiết mồ hôi và giảm mất nƣớc cho cơ thể.
c. Chuyển hoá sắt
Sắt là thành phần của Hb. Nhờ có Fe, Hb mới kết hợp đƣợc với O2
thành HbO2. Nếu thiếu Fe, cơ thể không thể sản xuất thêm đƣợc Hb. Sắt
cần cho cơ thể không phải chỉ lấy đơn độc trong thức ăn mà có thể do các
huyết cầu bị hủy hoại cung cấp. Phần Fe đó đƣợc giữ lại để xây dựng hồng
cầu mới. Trong cơ thể có chừng 3g sắt: 2,5g trong Hb; 0,5g trong các tế
bào cơ thể. Mỗi ngày ngƣời lớn cần 10 - 30mg Fe. Trẻ con cần nhiều hơn,
đặc biệt là trẻ con còn bú vì trong sữa có rất ít sắt. Nguồn chứa Fe phong
phú là thịt, quả, rau, lòng đỏ trứng, đậu...
d. Chuyển hoá Iod
Iod trong cơ thể có rất ít nhƣng không vì thế mà bớt quan trọng. I
là thành phần không thể thiếu của Thyroxin (kích tố giáp trạng). Nếu thiếu
I, kích tố này không sản xuất đƣợc. I có nhiều trong nƣớc biển, I còn chứa
cả trong nƣớc đã chảy qua các đá giàu I, vì thế nƣớc ta uống thƣờng có
Iod. Ngƣời lớn cần 0,000014g I/ngày. Nếu I vào nhiều, cơ thể sẽ giữ lại
làm dự trữ. Ở một số vùng núi, nƣớc uống thiếu I nên gây ra bệnh bứu cổ.
128
128
6.2.4.2. Chuyển hoá nƣớc
Nƣớc là thành phần cấu tạo quan trọng của cơ thể. Trong cơ thể
ngƣời lớn nƣớc chiếm 62 %, trẻ con: 80 % trở lên. Ngƣời nhịn đói nhƣng
đƣợc uống nƣớc: sống 40 - 50 ngày. Ngƣời nhịn đói và nhịn khát chỉ sống
đƣợc vài ngày. Nƣớc và muối khoáng là nội môi của cơ thể, là thành phần
chủ yếu của huyết tƣơng, bạch huyết, nƣớc tổ chức. Nƣớc là dung môi của
cơ thể: tất cả các chất đƣợc hấp thu vào máu và bạch huyết đều dƣới dạng
hòa tan trong nƣớc. Nƣớc là thành phần chủ yếu của máu (92% huyết
tƣơng là nƣớc). Máu là tác nhân vận chuyển thức ăn đến tế bào và nhận
cặn bã từ tế bào đƣa về da và thận để thải ra ngoài theo mồ hôi và nƣớc
tiểu. Các quá trình oxy hóa và một số phản ứng hóa học khác trong cơ
thể đều cần đến nƣớc, vì hầu hết các quá trình phân hủy đều thực hiện theo
lối thủy phân. Nƣớc góp phần điều tiết thân nhiệt, nƣớc và muối khoáng là
thành phần của dịch tiêu hóa.
Tỷ lệ giữa nƣớc lấy vào và nƣớc thải ra gọi là thăng bằng nƣớc. Bao
giờ nƣớc lấy vào cũng phải đủ để bù cho nƣớc thải ra. Thăng bằng nƣớc
đặc biệt cần khi ta lao động chân tay. Mỗi ngày cơ thể thải chừng: 1,5 lít
nƣớc tiểu, 100 - 200 ml theo phân, 500 - 1000ml qua da (trong điều kiện
bình thƣờng),350 - 400ml qua phổi. Ngƣời lớn mỗi ngày cần 2,5 - 3 lít
nƣớc (trong nƣớc uống và thức ăn). Mỗi ngày cơ thể cũng mất chừng ấy
nƣớc. Nếu nhiệt độ môi trƣờng xung quanh bằng nhiệt độ cơ thể thì mỗi
ngày ngƣời lớn mất đến khoảng 4,5 l nƣớc. Chuyển hoá nƣớc liên quan
với chuyển hoá các chất khoáng. Đƣa dung dịch muối ƣu trƣơng vào cơ
thể sẽ gây tăng đào thải nƣớc theo nƣớc tiểu. Giảm bài xuất natri khỏi cơ
thể làm giảm đào thải nƣớc.
6.2.4.3 Điều hoà chuyển hoá muối - nƣớc
Điều hoà chuyển hoá muối - nƣớc đƣợc thực hiện bằng ảnh hƣởng của
thần kinh và thể dịch lên chức năng của thận và các tuyến mồ hôi.
Hormon thùy sau tuyến yên là vasopressin và các hormon vỏ thƣợng
thận mineralocorticoid (xem chƣơng nội tiết) có vai trò quan trọng trong
chuyển hoá muối - nƣớc. Vasopressin làm giảm bài tiết nƣớc của thận, còn
mineralocorticoid có tác dụng giữ natri và tăng lƣợng dịch thể trong cơ
thể. Các trung khu thần kinh điều hoà chuyển hoá muối - nƣớc nằm trong
não trung gian, trong vùng dƣới đồi. Ở đây có các tế bào thần kinh làm
nhiệm vụ của các receptor thẩm thấu. Các tế bào này nhạy cảm với sự thay
đổi nồng độ các chất điện giải. Hƣng phấn các tế bào này gây ra các phản
xạ điều tiết, làm phục hồi sự cân bằng áp suất thẩm thấu.
129
129
6.2.5. Các loại vitamin và vai trò của chúng trong chuyển hoá vật chất
Một trong những thành tựu lớn nhất của hóa sinh ở thời đại chúng
ta là sự khám phá ra vitamin và tiếp tục nghiên cứu tính chất của chúng.
Vitamin là những hợp chất hóa học tƣơng đối đơn giản, có trong thức ăn
với liều lƣợng nhỏ, không thể dùng làm nguồn năng lƣợng nhƣng cần thiết
tuyệt đối cho đời sống, không tổng hợp đƣợc trong cơ thể. Các loài khác
nhau có khả năng tổng hợp các vitamin khác nhau.
Ví dụ: ngƣời, khỉ và chuột lang cần vitamin C (acid ascorbic). Các
loài động vật khác có thể tự tổng hợp đƣợc từ glucose. Côn trùng không
có khả năng tổng hợp đƣợc cholesterine nên có thể xem cholesterine là
Vitamin đối với côn trùng.
Các Vitamin đƣợc chia ra hai loại:
- Các Vitamin tan trong nƣớc: B1, B2, B3 (acid nicotinic), B5
(acid pantotenic), B6, B12, B15, H, inozit, acid folic, PP, C, P.
- Các Vitamin tan trong mỡ: A, D, F, E, K.
6.2.5.1. Các vitamin tan trong nƣớc
a). Vitamin C
Bệnh scorbut gây ra do thiếu vitamin C là một trong những bệnh
không lây phổ biến đã từng biết trong lịch sử: chảy máu lợi, chảy máu da,
viêm khớp xƣơng, hay đau yếu và bị yếu toàn bộ. Bệnh phát sinh khi thiếu
quả tƣơi, rau, thịt trong một thời gian dài. Dạng thiếu C nhẹ thể hiện ở tâm
thần uể oải, dễ bực tức.
Thông báo đầu tiên về thuốc điều trị bệnh scorbut thấy trong các báo
cáo về chuyến thám hiểm của Jacques Cartier (1536) đi Canada. Các đoàn
viên của ông mắc bệnh trầm trọng và theo lời khuyên của thổ dân da đỏ,
họ đã đƣợc điều trị bằng nƣớc sắc lá thông. Năm 1933 đã tách đƣợc
Vitamin phòng bệnh scorbut đó là acid ascorbic. Acid ascorbic rất không
bền vững và bị phá hủy nhanh khi nấu thức ăn, nguồn C tốt nhất là dùng
quả và nƣớc ép rau quả tƣơi.Vitamin C có vai trò rất quan trọng trong cơ
thể. Nó cần cho tổng hợp protein, vận chuyển oxy, do đó có vai trò trong
hô hấp của mô. Vitamin C cần để tạo ra các chất hữu cơ cần cho xƣơng,
răng và lợi, để hấp thu các chất trong ống tiêu hoá. Vitamin C có vai trò
rất quan trọng trong chuyển hoá glucid. Lƣợng Vitamin C rất cao ở một số
cơ quan nội tiết (thƣợng thận, tuyến yên, tuyến sinh dục) có lẽ nó có tham
gia vào chuyển hoá các hormone đó. Vitamin C tăng cƣờng các phản ứng
miễn dịch, tăng sức chống đỡ của cơ thể đối với bệnh tật. Thiếu vitamin C
130
130
gây rối loạn chức năng miễn dịch, làm giảm khả năng thực bào, do đó tạo
thuận lợi cho sự phát triển các tế bào ung thƣ, gây bệnh thấp và các bệnh
ngoài da. Ngƣời lớn khỏe mạnh cần 75 - 100 mg/ngày, khi lao động nặng
cần 200- 300mg. Đối với trẻ em là 35 - 50mg. Vitamin C không dự trữ
trong cơ thể, do đó phải đƣa vitamin C vào cơ thể hàng ngày.
b). Vitamin B1
Trong điều kiện tự nhiên, vitamin B1 đƣợc tổng hợp ở thực vật. Có
nhiều trong men bia, mầm lúa mì, lúa mạch, trong các loại đậu, cám gạo,
trong thịt lợn, gan, tim, não.Vitamin B1 tham gia tổng hợp các acid
nucleic, tham gia chuyển hóa glucid, lipid và protein. Thiếu vitamin B1
trong máu sẽ gây mệt mỏi, mất cảm giác ngon miệng, co giật cơ các
chi...thƣờng xuất hiện sau 5 - 6 ngày thiếu vitamin B1. Thiếu vitamin B1
làm giảm sử dụng oxy trong mô não, gây tích tụ trong các tế bào thần kinh
các sản phẩm chuyển hoá glucid chƣa đƣợc oxy hoá đầy đủ và gây rối
loạn hoạt động của hệ thần kinh (liệt, co giật, rối loạn vận động do đa
viêm và thoái hoá các tế bào thần kinh và các dây thần kinh), chức năng
tuyến thƣợng thận cũng bị rối loạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ksdhv0102_p1_3823.pdf