Sinh lý học động vật ( phần 15 )

Ðồng thời với sự tạo ra ống tim nội mô, trong phôi cũng xảy ra sự hình

thành các mạch máu. Những mạch máu này về cơ bản cũng nảy sinh theo

cùng một kiểu như các mạch được tạo ra ở ngoài phôi.

1. Những cung động mạch chủ

Những mạch trong phôi xuất hiện đầu tiên là 2 động mạch chủ bụng. Hai

rễ của động mạch chủ bụng được tạo ra cùng với 2 ống tim nội mô và

mỗi rễ nối với một ống tim. Sau một đoạn ngắn tiến về phía đầu phôi, 2

ống động mạch này cong về phía lưng rồi phát triển hướng về phía đuôi

phôi tạo nên động mạch chủ lưng. Ở phôi người có 5 cungđộng mạch

chủ, mỗi cung động mạch nối động mạch chủ bụng với động mạch chủ

lưng cùng bên. Những cung này phát triển không đồng thời.

- Cung thứ nhất: cung này biến đi sớm, chỉ còn sót lại ở mỗi bên một

đoạn ngắn sẽ trở thành động mạch hàm trong.

- Cung thứ 2: biến muộn hơn, trừ một đoạn ngắn còn lại về sau tạo ra

động mạch xương móng và xương bàn đạp.

-Cung thứ 3:tạo ra đoạn gần của động mạch cảnh trong. Ðoạn động mạch

chủ bụng từ chỗ cung thứ 3 tiến về đầu phôi tạo ra động mạch cảnh

ngoài, đoạn nằm giữacung thứ 3 và cung thứ 4 tạo ra động mạch cảnh

gốc. Ðoạn động mạch chủ lưng nằm giữa cung thứ 3 và thứ 4 biến đi.

-Cung thứ 4: cung trái góp phần tạo quai động mạch chủ, cung phải tạo

đoạn gần của động mạch dưới đòn phải. Ðoạn động mạch chủ nằm giữa

cáccung thứ 4 và thứ 6 tạo nên thân động mạch cánh tay đầu ở bên phải

và đoạn lên của quai động mạch chủ ở bên trái.

-Cung thứ 6: đoạn gần của cung này tạo động mạch phổi, đoạn xa nối với

động mạch chủ lưng tạo ống động mạch. Ống động mạch phải biến đi

sớm, ống động mạch trái tồn tại suốt đời sống phôi thai và sẽ thoái triển

thành dây chằng động mạch sau khi trẻ ra đời.

2. Những động mạch gian đốt

Ðộng mạch gian đốt còn gọi là động mạch gian khúc nguyên thủy là các

nhánh bên của động mạch chủ lưng và được phân làm 3 nhóm ở mỗi bên:

-Những động mạch tạng bụng: tưới máu cho ruột nguyên thủy và những

cơ quan, bộ phận phát sinh từ ống đó. Những động mạch này về sau sẽ

tạo ra động mạch thân tạng, động mạch mạc treo ruột trên, động mạch

mạc treo ruột dưới, động mạch thực quản, động mạch phế quản.

-Những động mạch tạng bên: tưới máu cho trung bì trung gian. V ề sau sẽ

tạo ra động mạch thận, động mạch thượng thận, động mạch hoành dưới

và động mạch sinh dục.

- Những động mạch tạng lưng: tưới máu cho ống thần kinh, mào thần

kinh, thành sau và

thành bên của phôi. Về sau sẽ tạo ra động mạch gian sườn, động mạch

thắt lưng.

3. Ðộng mạch rốn

Ðộng mạch rốn được tạo ra từ 2 nhánh của động mạch chủ lưng, những

nhánh

này tiến về phía cuống phôi và rau và có quan hệ mật thiếtvới niệu nang.

Sau khi sinh, đoạn gần của động mạch rốn tạo động mạch chậu trong và

động mạch bàng quang trên, đoạn xa bị bịt lại tạo thành dây chằng rốn –

bàng quang

pdf9 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Sinh lý học động vật ( phần 15 ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh lý học động vật ( phần 15 ) Sự hình thành hệ tim mạch ( tiếp theo ) II. PHÁT TRIỂN CỦA ÐỘNG MẠCH Ðồng thời với sự tạo ra ống tim nội mô, trong phôi cũng xảy ra sự hình thành các mạch máu. Những mạch máu này về cơ bản cũng nảy sinh theo cùng một kiểu như các mạch được tạo ra ở ngoài phôi. 1. Những cung động mạch chủ Những mạch trong phôi xuất hiện đầu tiên là 2 động mạch chủ bụng. Hai rễ của động mạch chủ bụng được tạo ra cùng với 2 ống tim nội mô và mỗi rễ nối với một ống tim. Sau một đoạn ngắn tiến về phía đầu phôi, 2 ống động mạch này cong về phía lưng rồi phát triển hướng về phía đuôi phôi tạo nên động mạch chủ lưng. Ở phôi người có 5 cung động mạch chủ, mỗi cung động mạch nối động mạch chủ bụng với động mạch chủ lưng cùng bên. Những cung này phát triển không đồng thời. - Cung thứ nhất: cung này biến đi sớm, chỉ còn sót lại ở mỗi bên một đoạn ngắn sẽ trở thành động mạch hàm trong. - Cung thứ 2: biến muộn hơn, trừ một đoạn ngắn còn lại về sau tạo ra động mạch xương móng và xương bàn đạp. - Cung thứ 3:tạo ra đoạn gần của động mạch cảnh trong. Ðoạn động mạch chủ bụng từ chỗ cung thứ 3 tiến về đầu phôi tạo ra động mạch cảnh ngoài, đoạn nằm giữa cung thứ 3 và cung thứ 4 tạo ra động mạch cảnh gốc. Ðoạn động mạch chủ lưng nằm giữa cung thứ 3 và thứ 4 biến đi. - Cung thứ 4: cung trái góp phần tạo quai động mạch chủ, cung phải tạo đoạn gần của động mạch dưới đòn phải. Ðoạn động mạch chủ nằm giữa các cung thứ 4 và thứ 6 tạo nên thân động mạch cánh tay đầu ở bên phải và đoạn lên của quai động mạch chủ ở bên trái. - Cung thứ 6: đoạn gần của cung này tạo động mạch phổi, đoạn xa nối với động mạch chủ lưng tạo ống động mạch. Ống động mạch phải biến đi sớm, ống động mạch trái tồn tại suốt đời sống phôi thai và sẽ thoái triển thành dây chằng động mạch sau khi trẻ ra đời. 2. Những động mạch gian đốt Ðộng mạch gian đốt còn gọi là động mạch gian khúc nguyên thủy là các nhánh bên của động mạch chủ lưng và được phân làm 3 nhóm ở mỗi bên: - Những động mạch tạng bụng: tưới máu cho ruột nguyên thủy và những cơ quan, bộ phận phát sinh từ ống đó. Những động mạch này về sau sẽ tạo ra động mạch thân tạng, động mạch mạc treo ruột trên, động mạch mạc treo ruột dưới, động mạch thực quản, động mạch phế quản. - Những động mạch tạng bên: tưới máu cho trung bì trung gian. Về sau sẽ tạo ra động mạch thận, động mạch thượng thận, động mạch hoành dưới và động mạch sinh dục. - Những động mạch tạng lưng: tưới máu cho ống thần kinh, mào thần kinh, thành sau và thành bên của phôi. Về sau sẽ tạo ra động mạch gian sườn, động mạch thắt lưng. 3. Ðộng mạch rốn Ðộng mạch rốn được tạo ra từ 2 nhánh của động mạch chủ lưng, những nhánh này tiến về phía cuống phôi và rau và có quan hệ mật thiết với niệu nang. Sau khi sinh, đoạn gần của động mạch rốn tạo động mạch chậu trong và động mạch bàng quang trên, đoạn xa bị bịt lại tạo thành dây chằng rốn – bàng quang. III. PHÁT TRIỂN CỦA TĨNH MẠCH Ở phôi người 4 mm, vào khoảng tuần thứ 4, có 3 cặp tĩnh mạch được phân biệt: - Tĩnh mạch noãn hoàng: gồm 2 tĩnh mạch noãn hoàng trái và phải, bắt nguồn từ trung bì lá tạng của thành túi noãn hoàng. Hai tĩnh mạch này dẫn máu từ túi noãn hoàng về tim để đổ máu vào các sừng của xoang tĩnh mạch. - Tĩnh mạch rốn: gồm 2 tĩnh mạch rốn phải và trái, bắt nguồn từ các nhung mao đệm, dẫn máu có oxy về tim và cũng đổ vào các sừng của xoang tĩnh mạch. - Tĩnh mạch chính: cấu tạo bởi những tĩnh mạch trong phôi và gồm 2 tĩnh mạch chính trước phải và trái nhận máu ở vùng đầu của phôi và 2 tĩnh mạch sau phải và trái nhận máu ở vùng đuôi phôi. IV. NHỮNG BIẾN ÐỔI TUẦN HOÀN SAU SINH 1. Tuần hoàn phôi thai Sự tuần hoàn máu ở thai khác với sau khi trẻ ra đời chủ yếu bởi máu thai được oxy hóa không phải ở phổi mà ở rau. Thai nhận máu có oxy từ rau qua tĩnh mạch rốn, tĩnh mạch rốn dẫn máu đến gan. Một phần lớn máu được đổ trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới, một phần nhỏ đổ vào các xoang gan và trộn lẫn với máu của tuần hoàn cửa. Tĩnh mạch chủ dưới dẫn máu đổ vào nhĩ phải. Máu từ nhĩ phải hoặc đi xuống thất phải hoặc sang nhĩ trái qua lỗ bầu dục (vì áp lực nhĩ phải lớn hơn nhĩ trái). Từ thất phải, máu vào động mạch phổi, vì phổi chưa hoạt động nên phần lớn máu động mạch phổi qua ống động mạch để vào động mạch chủ. Từ động mạch chủ, một phần máu sẽ đến các tạng và một phần được dẫn theo động mạch rốn đến rau. Trên đường lưu thông từ rau đến các cơ quan phôi thai, máu tĩnh mạch rốn giàu oxy sẽ giảm dần do sự trộn lẫn với máu đã giảm bão hòa oxy ở 4 nơi: gan, tĩnh mạch chủ dưới, nhĩ trái, động mạch chủ. 2. Biến đổi tuần hoàn sau sinh Khi trẻ ra đời, tuần hoàn máu có những biến đổi quan trọng và đột ngột do phổi đảm nhiệm chức năng hô hấp và tuần hoàn rau mất đi. - Khi phổi bắt đầu hô hấp, các phế nang, lòng các mạch máu trong phổi giãn ra,sức cản của các động mạch phôi giảm xuống đột ngột nên áp lực máu trong tâm nhĩ phải và tâm thất phải giảm đi, ống động mạch bị bịt lại vì vậy lượng máu chảy qua các mạch phổi tăng lên nhanh chóng. Kết quả là làm xuất hiện áp lực ở nhĩ trái và làm áp lực ở nhĩ trái cao hơn áp lực nhĩ phải nên vách nguyên phát bị đẩy về phía vách thứ phát làm khép lối thông liên nhĩ do lỗ thứ phát và lỗ bầu dục bị bịt lại - Sự bịt của các động mạch rốn xảy ra vài phút sau sinh. Ðoạn xa của động mạch rốn sẽ trở thành dây chằng rốn bên và đoạn gần sẽ trở thành động mạch bàng quang trên. - Sự bịt của các tĩnh mạch rốn và ống tĩnh mạch xuất hiện ngay sau khi động mạch rốn bịt lại. Sau khi bị bịt lại, tĩnh mạch rốn sẽ trở thành dây chằng tròn, ống tĩnh mạch sẽ trở thành dây chằng của tĩnh mạch gan. - Ống động mạch bị bịt lại ngay sau sinh, sau sẽ trở thành dây chằng động mạch. V. PHÁT TRIỂN BẤT THƯỜNG 1. Phát triển bất thường của tim 1.1. Những dị tật do ngăn tâm nhĩ - Tật còn lỗ bầu dục: khi trẻ ra đời, lúc tuần hoàn phổi bắt đầu, áp lực của nhĩ trái tăng lên và cao hơn nhĩ phải làm cho vách nguyên phát bị đẩy sát vách thứ phát và lỗ bầu dục bị bịt lại. Có khoảng 20% trẻ ra đời, sự khép kín ấy không hoàn toàn dẫn đến tật ngăn tâm nhĩ gọi là tật còn lỗ bầu dục. - Thông liên nhĩ do rối loạn phát triển vách liên nhĩ: Vách nguyên phát và thứ phát đều có rối loạn phát triển. + Vách nguyên phát: có thể bị tiêu hủy quá mức (H.7A) hoặc trên vách đó lỗ thứ phát có vị trí bất thường. + Vách thứ phát: vách thứ phát phát triển không đủ (H. 7B) + Thông liên nhĩ do bất sản hoàn toàn vách nhĩ (H. 7C), gọi là tật tim 3 ngăn. - Khép lỗ bầu dục trước khi trẻ ra đời: tật này dẫn đến phì đại thất phải và teo tim trái. Trẻ sơ sinh chết ngay sau khi ra đời. 1.2. Dị tật do ngăn ống nhĩ thất - Tật còn ống nhĩ thất chung: do rối loạn phát triển của vách nhĩ thất. Vách nhĩ thất không chỉ phân chia lỗ nhĩ thất thành lỗ phải và trái mà còn tham gia hình thành phần màng của vách liên thất và đóng lỗ nguyên phát. Sự không sát nhập của các thành phần này dẫn đến tật còn ống nhĩ thất kết hợp với dị tật vách tim làm buống nhĩ và thất được ngăn cách bởi những lá van bất thường (H. 8). - Tật còn lỗ nguyên phát: do rối loạn phát triển của vách nhĩ thất , vách liên thất được đóng kín nhưng vách nhĩ bị khiếm khuyết dẫn đến tật còn lỗ nguyên phát (H. 8C). - Tịt van 3 lá: do lỗ nhĩ thất bị bịt kín trong giai đoạn phát triển sớm dẫn đến thiếu các lá van của van 3 lá hoặc do các lá van sát nhập với nhau. Tật này thường kết hợp với thông liên nhĩ, thông liên thất, teo thất phải, phì đại thất trái (H. 9A). 1.3. Dị tật vách liên thất - Bất sản toàn bộ các thành phần tạo ra vách liên thất: tật tim 3 ngăn trong đó chỉ có một thất. - Bất sản đoạn màng vách liên thất: do rối loạn phát triển của vách xoắn ngăn thân – nón động mạch và vách ngăn ống nhĩ thất (H. 9B). 1.4. Dị tật do ngăn thân nón động mạch Do rối loạn phát triển vách ngăn thân – nón động mạch hoặc do sự hình thành vách ngăn xảy ra ở những vị trí bất thường hoặc do sự xoắn bất thường hoặc không xoắn của vách ngăn thân – nón động mạch. - Tứ chứng Fallot: là dị tật thường gặp nhất trong dị tật ngăn thân – nón động mạch. Hội chứng này gồm 4 dị tật: hẹp động mạch phổi, động mạch chủ mở vào cả 2 thất, thông liên thất, phì đại tâm thất phải (H. 10A). - Tam chứng Fallot: hội chứng này gồm 3 dị tật: hẹp thân chung của các động mạch phổi, thông liên nhĩ, phì đại thất phải. - Tật còn thân động mạch chung: do rối loạn phát triển của vách ngăn thân – nón động mạch gây ra sự còn sót lại một lối thông giữa động mạch phổi và động mạch chủ (H. 10B). - Tật chuyển chỗ các mạch máu lớn: do vách ngăn thân nón đứng thẳng làm thông tâm thất phải với động mạch chủ và tâm thất trái với động mạch phổi gây tật động mạch chủ và động mạch phổi đổi chỗ. Tật này thường kết hợp với thông liên thất do bất sản đoạn màng và tật còn ống động mạch (H. 11A). - Tật bất thường về vị trí thân – nón động mạch: trong quá trình phát triển bình thường của tim, thân – nón động mạch di chuyển vào giữa so với tâm thất. Thân – nón động mạch di chuyển quá mức sang trái hoặc sang phải dẫn đến tật thân – nón động mạch lệch trái: động mạch phổi nằm trên vách liên thất và nhận máu của 2 tâm thất hoặc lệch phải: động mạch chủ sẽ nhận máu của cả 2 thất. Tật thân – nón động mạch lệch phải gây ra dị tật gọi là phức hợp Eisenmenger gồm 3 khuyết tật: động mạch chủ lệch phải so với vị trí bình thường, thông liên thất, phì đại thất phải. 1.5. Những phát triển bất thường của van động mạch chủ, van động mạch phổi Do rối loạn sự ngăn thân – nón động mạch hoặc khuyết tật của bản thân các van: van không phát triển (bất sản van) hoặc phát triển không đầy đủ (VD: chỉ tạo van 1lá) hoặc do sự sát nhập van gây hẹp mạch hoặc tịt mạch. - Tịt van động mạch phổi: do sự sát nhập hoàn toàn của các lá van động mạch phổi (H. 11B). - Hẹp van động mạch chủ: những lá van động mạch chủ dày có thể sát nhập vào nhau (H. 12A). - Tịt van động mạch chủ: do sự sát nhập hoàn toàn của các lá van động mạch chủ (H. 12B). 1.6. Dị tật về vị trí tim - Tim lệch phải: dị tật này khá phổ biến, tim nằm trong trung thất phải. Nguyên nhân do rối loạn gấp khúc của tim nguyên thủy (ống tim nguyên thủy gấp khúc theo hướng ngược với hướng gấp khúc bình thường). - Tim lạc chỗ: dị tật này hiếm. Tim nằm trên bề mặt lồng ngực, do sự thiếu hụt trong quá trình khép mình của phôi ở đường giữa (thành ngực không đóng kín). 2. Những bất thường trong phát triển động mạch, tĩnh mạch 2.1.Dị tật của động mạch - Tật còn ống động mạch: bình thường ống động mạch bị bịt lại sau khi trẻ ra đời. - Hẹp động mạch chủ: lòng động mạch chủ bị hẹp, chỗ hẹp có thể ở trên hoặc ở dướilỗ mở vào của ống động mạch. Nguyên nhân do sự bất thường của lớp áo giữa dẫn đến sự tăng sinh của lớp áo trong. - Một số tật khác của động mạch: động mạch dưới đòn phải nằm sau thực quản, quai động mạch chủ kép, quai động mạch chủ ở bên phải, động mạch cảnh gốc trái có nguồn gốc bất thường. 2.2. Dị tật của tĩnh mạch - Tĩnh mạch chủ dưới kép ở đoạn thắt lưng, tĩnh mạch chủ trên kép. - Thiếu tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch chủ trên ở bên trái, phát triển bất thường của tĩnh mạch phổi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsinh_hoc_42_6624.pdf
Tài liệu liên quan