Khoa học ngày các phát triển đòi hỏi phải có những con người phát triển toàn diện mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Cấp bậc Tiểu học - bậc học đầu tiên của giáo dục phổ thôngcũng góp phần vô cùng quan trọng hình thành tư duy nâng dần từ trực quan đến trừu tượng. Một trong những môn học quan trọng trong đó là môn Toán
Môn toán là môn học "công cụ, cung cấp kiến thức, kĩ năng, phương pháp, góp phần xây dựng nền tảng văn hoá phổ thông của con người lao động mới. Toán học là công cụ của khoa học kĩ thuật có nguồn gốc trong thực tiễn. Những kiến thức toán học phổ thông cơ bản sẽ giúp cho học sinh có cơ sở để học các môn khoa học, kĩ thuật. Cùng với kiến thức, môn toán trong nhà trường còn cung cấp cho học sinh những kĩ năng như: Kĩ năng tính (tính viết, tính nhẩm, tính bằng bàn tính.) ; Kĩ năng sư dụng các dụng cụ toán học (thước kẻ, compa), kĩ năng đọc, vẽ hình; Kĩ năng đo đạc (bằng dụng cụ), ước lượng (bằng mắt, bằng tay, bằng gang tay, bước chân.)
Đồng thời với việc trau dồi kiến thức, kĩ năng toán học cơ bản cho học sinh, môn toán còn giúp cho học sinh phương pháp suy luận, phương pháp lao động tốt, phương pháp tự học, phương pháp giải quyết các vấn đề, từ dó học sinh có phương pháp tự học và phát triển trí thông minh sáng tạo. Qua hoạt động học toán, học sinh được rèn luyện tính cẩn thận, phân biệt rõ ràng, đúng sai. Môn toán còn có tác dụng trau dồi cho học sinh óc thẩm mĩ: giúp các em thích học toán, thể hiện trong lợi ích của môn toán, trong hình thức trình bày.
29 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1805 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu sáng kiếm kinh nghiệm môn Toán lớp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ 2
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Đối tượng nghiên cứu 4
4. Giới hạn của đề tài 4
5. Nhiệm vụ đề tài 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
7. Thời gian nghiên cứu 4
Phần thứ hai: NỘI DUNG 6
I. Cơ sở lí luận 6
II. Cơ sở thực tiễn 7
1. Về học sinh 7 2. Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học 12
3. Về giáo viên 8
4. Những hạn chế và khó khăn thường gặp của GV
và HS khi dạy và học mạch kiến thức"Giải toán có lời văn" ở lớp 1
III. Một số biện pháp thực hiện 9
1. Nắm bắt nội dung chương trình 9
2. Sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học 12
3. Dạy "Giải toán có lời văn" ở lớp 1 13
Phần thứ ba: KẾT LUẬN 22
1. Ý nghĩa 22
2. Bài học kinh nghiệm và giải pháp thực hiện 23
3. Kết luận 24
4. Kiến nghị, đề xuất 24
Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
1 – Lí do chọn đề tài
Khoa học ngày các phát triển đòi hỏi phải có những con người phát triển toàn diện mới đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Cấp bậc Tiểu học - bậc học đầu tiên của giáo dục phổ thôngcũng góp phần vô cùng quan trọng hình thành tư duy nâng dần từ trực quan đến trừu tượng. Một trong những môn học quan trọng trong đó là môn Toán
Môn toán là môn học "công cụ, cung cấp kiến thức, kĩ năng, phương pháp, góp phần xây dựng nền tảng văn hoá phổ thông của con người lao động mới. Toán học là công cụ của khoa học kĩ thuật có nguồn gốc trong thực tiễn. Những kiến thức toán học phổ thông cơ bản sẽ giúp cho học sinh có cơ sở để học các môn khoa học, kĩ thuật. Cùng với kiến thức, môn toán trong nhà trường còn cung cấp cho học sinh những kĩ năng như: Kĩ năng tính (tính viết, tính nhẩm, tính bằng bàn tính...) ; Kĩ năng sư dụng các dụng cụ toán học (thước kẻ, compa), kĩ năng đọc, vẽ hình; Kĩ năng đo đạc (bằng dụng cụ), ước lượng (bằng mắt, bằng tay, bằng gang tay, bước chân...)
Đồng thời với việc trau dồi kiến thức, kĩ năng toán học cơ bản cho học sinh, môn toán còn giúp cho học sinh phương pháp suy luận, phương pháp lao động tốt, phương pháp tự học, phương pháp giải quyết các vấn đề, từ dó học sinh có phương pháp tự học và phát triển trí thông minh sáng tạo. Qua hoạt động học toán, học sinh được rèn luyện tính cẩn thận, phân biệt rõ ràng, đúng sai. Môn toán còn có tác dụng trau dồi cho học sinh óc thẩm mĩ: giúp các em thích học toán, thể hiện trong lợi ích của môn toán, trong hình thức trình bày.
Nội dung môn toán ở tiểu học bao gồm nhiều chủ đề, kiến thức lớn như:
- Số học.
- Đo đại lượng thông dụng.
- Một số yếu tố ban đầu về đại số.
- Một số yếu tố hình học.
- Giải toán có lời văn.
Trong đó việc dạy học giải toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn phương pháp suy luận và những phẩm chất của người lao động mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy học giải toán ở tiểu học nhất là ở khối lớp 1- khối đầu cấp nên tôi chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1" để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học mạch kiến thức giải toán có lời văn để HS có kĩ năng giải toán tốt hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
HS líp 1A trêng TiÓu häc Nam Cêng thµnh phè Yªn B¸i n¨m häc 2008 - 2009 , n¨m häc 2009 - 2010 , n¨m häc 2010 - 2011
4. Giới hạn của đề tài
HS líp 1A Trêng TiÓu häc Nam Cêng
N¨m häc
TSHS
Nam
N÷
2008 - 2009
27
14
13
2009 - 2010
29
15
14
2010 - 2011
26
13
13
5. Nhiệm vụ của đề tài
§èi víi ®Ò tµi nµy nhiÖm vô nghiªn cøu cña b¶n th©n t«i lµ:
- Kh¶o s¸t thùc tÕ, thùc tr¹ng gi¶i to¸n cã lêi v¨n cña häc sinh líp 1 qua c¸c n¨m häc.
- T×m hiÓu nguyªn nh©n ¶nh hëng tíi viÖc gi¶i to¸n cßn sai.
- Nªu ra c¸c bíc tiÕn hµnh ®Ó híng dÉn HS gi¶i to¸n ®óng, tr×nh bµy bµi gi¶i ®Ñp.
§a ra nh÷ng biÖn ph¸p gi¶i quyÕt, kh¾c phôc nh÷ng víng m¾c mµ häc sinh cßn m¾c ph¶i.
6. Phương pháp nghiên cứu:
§Ó thùc hiÖn ®Ò tµi nµy b¶n th©n t«i ®· ¸p dông mét sè ph¬ng ph¸p nghiªn cøu sau:
- Nghiªn cøu t liÖu.
- Quan s¸t, so s¸nh ph©n tÝch tæng hîp c¸c bµi gi¶i to¸n cã lêi v¨n cña HS.
- LuyÖn tËp, thùc hµnh.
- T×m hiÓu häc sinh vÒ c¸c mÆt: Hoµn c¶nh gia ®×nh, ®iÒu kiÖn häc tËp, tÝnh c¸ch cña tõng em.
7. Thời gian nghiên cứu:
§Ó nghiªn cøu ®Ò tµi nµy, t«i ®· thùc hiÖn trong thêi gian lµ ba n¨m häc:
- Năm học 2008 – 2009 tôi được phân công dạy lớp 1. Trong suốt năm học tôi tìm
hiểu, ghi chép tập hợp những ưu điểm, thiếu sót của học sinh trong lớp về ” Giải
toán có lời văn”. Tôi đã mạnh dạn trao đổi cùng Ban giám hiệu, bạn bè đồng
nghiệp trong và ngoài trường về những ưu điểm và thiếu sót của học sinh lớp 1 nói
chung trong việc ” Giải toán có lời văn”, đồng thời trao đổi, bàn bạc và đề xuất
một số ý kiến để phát huy ưu điểm và khắc phục thiếu sót của học sinh và giáo viên.
- Năm học 2009 – 2010 tôi tiếp tục dạy lớp 1. Tôi mạnh dạn áp dụng một số kinh
nghiệm, đồng thời tiếp tục tìm hiểu thêm những vướng mắc của học sinh cũng như
của giáo viên về ” Giải toán có lời văn”, bổ xung thêm cách tháo gỡ, tích luỹ thêm
kinh nghiệm và áp dụng vào thực tế.
- Năm học 2010 – 2011 tôi tiếp tục dạy lớp 1. áp dụng kinh nghiệm và đánh giá
kết quả học tập của học sinh về “Giải toán có lời văn”. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm: Nâng cao chất lượng giảng dạy tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” ở lớp 1
§äc tµi liÖu, rót kinh nghiÖm thùc tÕ giê d¹y trªn líp. TËp hîp t liÖu, xö lÝ - viÕt, söa ®Ò tµi. Hoµn thiÖn cuèi häc k× I n¨m häc 2011 - 2012
Phần thứ hai: VỀ NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
Theo ®iÒu lÖ Trêng TiÓu häc: BËc tiÓu häc lµ bËc häc nÒn t¶ng trong hÖ thèng gi¸o dôc quèc d©n, ta coi líp 1 lµ c¸i mãng cña toµ nhµ ®å sé ®îc x©y dùng lªn. Muèn v÷ng ch¾c bÒn l©u th× kÜ thuËt x©y dùng mãng lµ hÕt søc quan träng. §ßi hái ngêi thî x©y mãng ph¶i giái, võa cã kÜ thuËt cao võa cã sù s¸ng t¹o.
- VÒ kiÕn thøc: Đối với HS lớp 1, việc giải toán gồm:
+ Giới thiệu bài toán đơn.
+ Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ, chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị.
- VÒ kü n¨ng:
Đối với mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn”, là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. Tuy nhiên vì mới quen với môn toán, với các phép tính cộng, trừ, lại tiếp xúc với việc giải toán có lời văn không khỏi có những bỡ ngỡ với học sinh.
Giải toán là một hoạt động gồm những thao tác:
+ Xác lập được mối liên hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán.
+ Chọn phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
Điều chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện bài toán mà thiết lập các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Để tiến hành được điều đó, việc dạy toán diễn ra theo 3 mức độ.
- Mức độ thứ nhất: Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán.
- Mức độ thứ hai: Hoạt động làm quen với việc giải toán.
- Mức độ ba: Hoạt động hình thành kĩ năng giải toán.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Về học sinh
Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 1. Bởi vì đối với lớp 1: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng
phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được
phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài
toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để
tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chước.
Qua thực tế khảo sát cùng một đề toán cho HS lớp 1 của ba năm học khác nhau cho thấy việc giẩi toán có ưu điểm và hạn chế như sau:
1.2 Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán đúng.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải bài toán có
lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
1.2. Hạn chế
- Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp.
- Một số học sinh chưa biết cách viết câu lời giải phù hợp.
- Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm
được bài.
2. Về đồ dùng dạy học
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trờng tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị
và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo
lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn cha đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
dạy “Giải toán có lời văn”.
3. Về giáo viên
Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là “thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”. Một số giáo viên chưa biết cách dạy " Giải toán có lời văn", nếu không muốn nói là làm cho bài toán trở nên phức tạp, khó hiểu hơn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu.
4. Những hạn chế và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi dạy và học mạch kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp 1.
Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn”cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả.Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế nên khi giảng dạy cho học sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt như với các lớp trên làm học sinh lớp 1 khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và không đạt kết quả tốt trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao.
III - Một số biện pháp thực hiện
1. Nắm bắt nội dung chương trình
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, “Giải toán có lời văn” nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp 1 thì ai mà cũng dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và cũng có
những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận
thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức
cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói ” Biết 10 dạy 1″
chứ không thể ” Biết 1 dạy 1″ vì kết quả thu được sẽ không còn là 1 nữa.
a. Trong chương trình toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên
chưa thể đưa ngay “Bài toán có lời văn”. Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh mới được
chính thức học cách giải “Bài toán có lời văn” song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn
bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài “Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) ” ở
tuần 7.
* Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ
trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “Nhìn tranh nêu phép
tính” ở đây học sinh được làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời : “Có 1
quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?” rồi tập nêu
miệng câu trả lời : “có tất cả 3 quả bóng”, sau đó viết vào dãy năm ô trống để có
phép tính :1 + 2 = 3
* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu
đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy
năm ô trống. ở đây không còn tranh vẽ nữa (xem bài 3b – trang 87, bài 5 – trang
89).
* Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn bị
cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các
bài tập “nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống” chúng ta chịu khó
đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng.
Ví dụ: Từ bức tranh “3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới” ở trang 47 – SGK,
sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống: 3 + 1 = 4
Giáo viên nên hỏi tiếp: “Vậy có tất cả mấy con chim?” để học sinh trả lời miệng:
“Có tất cả 4 con chim” ; hoặc “Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có tất cả
là 4) …
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng.
Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
* Tiếp theo, trước khi chính thức học “Giải các bài toán có lời văn” học sinh được
học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần chính là
những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (cha biết). Vì khó có thể giải
thích cho học sinh “Bài toán là gì?” nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho
các em hai bộ phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái phải tìm (câu hỏi).
Để làm việc này sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề toán: 2 đề
còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu
thị bằng dấu …) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào
chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên giới
thiệu cho các em ” Bài toán thường có hai phần “:
+ Những số đã cho.
+ Số phải tìm (câu hỏi).
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của “Bài toán có lời văn”.
b. * Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán “Thêm –
Bớt” thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán “Thêm” thành bài toán gộp, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng, Bình có 3
quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”, dạng này khá phổ biến.
- Bài toán “Bớt” thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn : ” Lớp 1A có 35 bạn,
trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?”, dạng này ít gặp vì
dạng này hơi khó (CTTH cũ dạy ở lớp 2)
* Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo quy
định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
- Câu lời giải.
- Phép tính giải.
- Đáp số.
Ví dụ: Xét bài toán “Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có
tất cả mấy con gà?”
* Học sinh lớp 1 theo CTTH cũ chỉ cần giải bài toán trên như sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 ( con gà )
Học sinh lớp 1 theo CTTH hiện nay phải giải như sau:
Bài giải:
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
* Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt để dành thời gian cho trẻ viết
câu lời giải. Chẳng hạn trước đây trong 1 tiết ” Bài toán nhiều hơn” học sinh phải
giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4 bài luyện tập), thì bây giờ trong tiết ” Giải toán có lời
văn (thêm) ” học sinh phải giải 4 bài (1 bài mẫu, 3 bài luyện tập) …
* Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi “Giải bài toán có
lời văn” chương trình toán 1 mới đã có những giải pháp:
- Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như: thuyền, quyển, Quỳnh,
… tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc, dễ viết như : cam, gà, Lan, … trong các
đề toán.
- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa một chút
Là được ngay câu lời giải.
- Cài sẵn “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết
câu lời giải.
- Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời giải
khác nhau. Chẳng hạn, với bài toán : “An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả bóng. Hỏi
cả hai bạn có mấy quả bóng?”; Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách như:
+ Cả hai bạn có: ……..
+ Hai bạn có: ……….
+ An và Bình có: ……….
+ Tất cả có: ……….
+ Số bóng có tất cả là: ………..
2. Sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học
Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn”. Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng thiết bị, tranh ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử
dụng đồ dùng thiết bị dạy học để dạy học sinh “Giải bài toán có lời văn”.
Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến từng lớp đã có khá nhiều các đồ dùng mẫu vật cho việc sử dụng dạy “Giải toán có lời văn” song vẫn là thiếu nếu giáo viên thực
sự có trách nhiệm. Mỗi nhà trường cần có kế hoạch mua bổ xung, từng tổ khối, cá
nhân giáo viên cần sưu tầm, làm thêm các thiết bị như: vật thực, tranh ảnh… làm đồ
dùng, dùng chung và riêng cho từng lớp.
Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và khi dạy “Giải toán có lời văn” nói
riêng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử dụng đồ
dùng dạy học trước khi lên lớp. Cần cải tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn để đa
việc thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học và phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
3. Dạy ”Giải toán có lời văn” ở lớp 1.
3.1. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: ”Giải toán có lời văn” ở lớp 1
a. Phương pháp trực quan
Khi dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng
tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường lối
giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ
giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi
ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và
phương pháp trực quan.
b. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối giải, chữa bài làm của học sinh …
c. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn”
trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này.
ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có vấn
đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm” trở
thành bài toán tìm số trừ. Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.
Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp kiến tạo …
d. Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin
GV thiết kế các slide trong giáo án điện tử trong đó có thiết kế các hiệu ứng di chuyển ra hoặc vào, thêm hoặc bớt... để hướng dẫn HS phân tích đề toán. Bằng các hình ảnh động, cụ thể HS dễ dàng nắm được nội dung bài toán và tìm ra được cách giải.
3.2. Quy trình ” Giải toán có lời văn ”
3.2.1. Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán:
Trước mỗi giờ toán tôi thường nghiên cứu kĩ bài toán tìm xem đồ dùng nào phù hợp với bài như các nhóm đồ vật, các mẫu hình, tranh vẽ.
Mỗi học sinh có 1 hộp hình học toán. theo yêu cầu của giáo viên học sinh được rèn luyện các thao tác trên tập hợp các nhóm đồ vật, các mẫu hình.
Phần lớn các bài toán đều có chủ đề liên quan tới các đại lượng và mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài toán. Vì thế, việc rèn kĩ năng thao tác qua việc học về phép đo đại lượng là rất cần thiết cho việc giải toán.
3.2.2. Hoạt động làm quen với giải toán:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm đường lối giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
a. Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như ” thêm , và , tất cả, … ” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , …” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài.
Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ cha
sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong thời kỳ đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm
thoại ” Bài toán cho gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm
tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để
giúp trẻ ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (… có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( … có 4 con vịt)
- Em có bài toán thế nào? (…)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo khoa.
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật
(gà, vịt, …) lên bảng từ (bảng cài, bảng nỉ, …) để thay cho tranh; hoặc dùng tóm
tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
* Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán:
C1: Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ 1: Tóm tắt: Ví dụ 2: Tóm tắt:
Nga : 3 quyển Vịnh có: 43 que tính
Hằng : 2 quyển Hà có : 52 que tính
Cả hai bạn có : … quyển? (A) Cả hai bạn có : … que tính?
C2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thắng(it dung thường chỉ dùng cho giải toán có liên quan tới độ )
C3: Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
? ngôi sao
Ví dụ: Hàng trên:
Hàng dưới:
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột như: 43 que tính và 52 que tính; 3 quyển và 2 quyển
Kiểu tóm tắt như vậy khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi ý
cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Có thể lồng “cốt câu” lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (A) học sinh có thể viết ngay câu lời giải là : “Cả hai bạn có:” hoặc “Số vở cả hai bạn có:” hoặc: “Cả hai
bạn có số vở là:”. Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu ? lên trước các từ như quyển, quả, … Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu tóm tắt bằng sơ đồ đoạn
thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trước các từ như quyển, quả ,… cũng
được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy nhiên học sinh thường có thói
quen cứ thấy dấu … là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý các em là:
“Riêng trong trường hợp này (trong tóm tắt ) thì dấu … thay cho từ “mấy” hoặc
“bao nhiêu” ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để ghi vào đáp số của bài giải chứ
không phải để ghi vào chỗ … trong tóm tắt. Nếu không thể giải thích cho học sinh
hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối cũ, tức là đặt dấu hỏi (?) ra đằng trước
theo kiểu “Còn ? quả” cũng được, không nên quá cứng nhắc.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sang_kien_kinh_nghiem_mon_toan_lop_1_giang_2011_2012_3133.doc