Phong trào nuôi cá tràu tại NghệAn bắt đầu phát triển từnăm 2004, đến năm
2010 đã phát triển mạnh tại các địa phương vùng đồng bằng với nhiều hình thức
nuôi manglại hiệu quảkinh tếcao. Nguồn thức ăn rất dồi dào, nhân công rẻ, thị
trường tiêu thụlớn là điều kiện đểquy hoạch xây dựng các vùng nuôi cá tràu tập
trung, tạo nguồn nguyên liệu cho chếbiến ởquy mô công nghiệp phục vụthị
trường tiêu thụnội địa và hướng tới xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn cung cấp cá
giống ởNghệAn chưa đáng kể, việc lưu giữgiống cá bốmẹqua mùa đông chưa
thành công, việc sản xuất giống không kịp thời vụ. Đểtìm giải pháp khắc phục
những tồn tại vềvấn đềcon giống cung cấp cho phong trào nuôi tại NghệAn, dự
án “Ứng dụng tiến bộkhoa học công nghệxây dựng mô hình sản xuất giống cá
tràu đen (Channa striata) chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái tại Nghệ
An” đã được triển khai thực hiện.
7 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Sản xuất giống cá tràu đen chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái tại NghệAn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sản xuất giống cá tràu đen chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái tại
Nghệ An
Tên dự án: Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ xây dựng mô hình sản xuất
giống cá tràu đen (Channa striata) chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái
tại Nghệ An Đơn vị thực hiện: Trung tâm giống thủy sản Nghệ An Chủ nhiệm dự
án: Ks Trần Văn Võ
Tên dự án: Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ xây dựng mô hình sản xuất
giống cá tràu đen (Channa striata) chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái
tại Nghệ An
Đơn vị thực hiện: Trung tâm giống thủy sản Nghệ An
Chủ nhiệm dự án: Ks Trần Văn Võ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phong trào nuôi cá tràu tại Nghệ An bắt đầu phát triển từ năm 2004, đến năm
2010 đã phát triển mạnh tại các địa phương vùng đồng bằng với nhiều hình thức
nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn thức ăn rất dồi dào, nhân công rẻ, thị
trường tiêu thụ lớn là điều kiện để quy hoạch xây dựng các vùng nuôi cá tràu tập
trung, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến ở quy mô công nghiệp phục vụ thị
trường tiêu thụ nội địa và hướng tới xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn cung cấp cá
giống ở Nghệ An chưa đáng kể, việc lưu giữ giống cá bố mẹ qua mùa đông chưa
thành công, việc sản xuất giống không kịp thời vụ. Để tìm giải pháp khắc phục
những tồn tại về vấn đề con giống cung cấp cho phong trào nuôi tại Nghệ An, dự
án “Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình sản xuất giống cá
tràu đen (Channa striata) chất lượng cao phù hợp với điều kiện sinh thái tại Nghệ
An” đã được triển khai thực hiện.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Tham quan học tập kinh nghiệm, tập huấn chuyển giao quy trình kỹ
thuật
Dự án đã tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm tại Trung tâm Quốc gia giống
thủy sản nước ngọt Nam Bộ, Trại sản xuất giống thủy sản nước ngọt, trại cá tràu
giống Hoàng Anh, Tiền Giang; Trại sản xuất giống thủy sản Minh Tâm ở Tiền
Giang cho 4 cán bộ kỹ thuật về: kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ; kỹ thuật chọn cá bố mẹ
cho đẻ; phương pháp cho cá đẻ; kỹ thuật ương nuôi cá bột lên cá giống.
Đơn vị chuyển giao quy trình công nghệ đã cử chuyên gia đến Trung tâm giống
thủy sản Nghệ An tổ chức tập huấn cho cán bộ kỹ thuật các biện pháp kỹ thuật từ
khâu nuôi vỗ cá bố mẹ, chọn cá và phân biệt cá đực, cá cái, kiểm tra độ thành thục
của cá bố mẹ, thăm trứng, đánh giá chất lượng trứng, ghép cặp cá bố mẹ cho đẻ,
ấp trứng và ương nuôi cá giống, biện pháp chẩn đoán phát hiện bệnh và phương
pháp phòng trị bệnh.
2. Xây dựng mô hình sản xuất giống cá tràu đen
Dự án đã lựa chọn 3 địa điểm để xây dựng mô hình: Trại sản xuất giống thủy
sản Yên Lý - Diễn Châu với diện tích 300m2 ; hệ thống bể của hộ gia đình ông
Nguyễn Long Vân (thị xã Cửa Lò) với diện tích 120m2 và hộ gia đình ông Lê
Công Thìn (Hưng Nguyên) với diện tích 500m2.
Dự án đã xây dựng mới hệ thống bể ương nuôi cá bột lên cá giống gồm: 12 bể
có kích thước 2,5m x 1,8m x 1m ; Làm mái che hệ thống bể 66m2 ; Sửa chữa hệ
thống ao nuôi cá bố mẹ; Lắp đặt hệ thống kích nước cho ao cá đẻ, hệ thống cấp
nước và hệ thống sục khí cho bể ương.
3. Tổ chức sản xuất thử nghiệm
Dự án đã tuyển chọn 150 cặp cá bố mẹ tại Trung tâm Quốc gia giống thủy sản
nước ngọt Nam Bộ và tại Nghệ An để tiến hành sản xuất thử nghiệm.
a. Nuôi vỗ và chăm sóc cá bố mẹ
Cá bố mẹ được nuôi trong ao có tường cao hơn mực nước cao nhất 0,6m, xung
quanh bờ được chắn lưới nilon cao 0,8m để chống cá nhảy ra ngoài. Trước khi thả
xuống ao, cá bố mẹ được tắm qua nước muối 3% trong khoảng thời gian 10 phút.
Từ ngày thứ 3 bắt đầu cho cá ăn 2 lần/ngày sáng và chiều. Khẩu phần ăn trong
tuần đầu là 4%, sau tăng dần lên theo nhu cầu ăn của cá. Thức ăn được cho vào
sàn rộng 0,6m2 đặt cách mặt nước 15-20cm, cách bờ 50cm. Hàng ngày kiểm tra
lượng thức ăn và điều chỉnh tăng giảm cho phù hợp với nhu cầu ăn của cá. Cứ 3-4
ngày thì thay bớt nước cũ trong ao (30-50% lượng nước trong ao) và cấp thêm
nước sạch. Xử lý ao nuôi định kỳ bằng vôi bột hòa nước té khắp mặt ao
(3kg/100m2 mặt nước) để phòng bệnh cho cá.
Năm 2009, cá bố mẹ nhập về được chăm sóc tốt, thức ăn phù hợp nên nhanh
béo, tỷ lệ cá thành thục đạt trên 50%. Cá bố mẹ được tuyển chọn tại địa phương
trong tỉnh thành thục sớm hơn, đạt tỷ lệ cao hơn cá được nhập từ miền Nam.
Năm 2010, đàn cá bố mẹ được nuôi lưu giữ qua mùa đông nên một số bị hao
hụt, bị nhiễm bệnh. Số còn lại được đem vào nuôi vỗ sớm, kết quả tỷ lệ thành thục
cao hơn năm 2009.
Hệ số thức ăn cho cá bố mẹ năm 2009 cao hơn năm 2010 do cá mới tập kết về
nên nhóm thực hiện đã cho cá ăn theo nhu cầu. Năm 2010 đã điều chỉnh quy trình
chăm sóc, định kỳ kiểm tra độ béo của cá để điều chỉnh thức ăn cho phù hợp.
b. Chọn cá cho đẻ và các phương pháp cho cá đẻ
Trong năm 2009, chọn cá cho đẻ bằng phương pháp tiêm kích dục tố thu được
95.000 con cá bột. Năm 2010, cá bố mẹ được lựa chọn nuôi vỗ tích cực từ đầu
tháng 2, cá phát dục tốt. Cho cá đẻ đầu tháng 3 bằng phương pháp cho cá ghép cặp
đẻ tự nhiên không dùng kích dục tố. Kết quả năm 2010 đạt cao hơn năm 2009, tỷ
lệ cá đẻ/tổng đàn ở 2 ao ngang nhau. Số cá bột thu được từ 6.000-7.500 con/1 con
cá cái tham gia đẻ.
c. Thu trứng và ấp trứng
Trứng cá đẻ xong được vớt đưa vào ấp riêng từng tổ trong chậu hoặc trong bể xi
măng (bể 4,5m2). Mực nước ấp trong bể là 0,4-0,5m (trong chậu là 0,2-0,3m).
Trong quá trình ấp, thường xuyên cho nước lưu thông nhẹ và vệ sinh vớt trứng
hỏng (có màu trắng đục); ở nhiệt độ 25-30oC, sau 25-30 giờ, trứng nở thành ấu
trùng, sau 2-3 ngày cá hết noãn hoàng. Sau khi cá nở hết 1-2 ngày thì cho vào bể
một ít phù du (Moina) để khi cá hết noãn hoàng thì đã có sẵn thức ăn tự nhiên,
tránh trường hợp những con hết noãn hoàng trước ăn thịt lẫn nhau.
d. Ương cá bột lên cá hương
Trong 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã tiến hành sản xuất 4 đợt, triển khai
ương nuôi đảm bảo quy trình kỹ thuật, tỷ lệ ương đạt khá cao (>70%). Tuy nhiên,
đợt sản xuất đầu tiên (ngày 10/6/2009) đạt thấp do chưa có kinh nghiệm nên cá
hao hụt nhiều trong thời kỳ cá chuyển thức ăn.
e. Ương cá hương thành cá giống
Quá trình ương trong giai đoạn cá hương thành cá giống đạt tỷ lệ khá cao (61%).
Để đánh giá tốc độ tăng trưởng của cá trong quá trình ương nuôi làm căn cứ để
điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày cho phù hợp, dự án đã tiến hành kiểm tra tốc
độ tăng trưởng của cá định kỳ 5 ngày/lần. Qua đó cho thấy: Giai đoạn cá bột lên cá
hương có tốc độ tăng trưởng tương đối về trọng lượng, chậm hơn giai đoạn cá
hương lên cá giống. Cá sản xuất vụ thu có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cá vụ
xuân do đáp ứng được lượng phù du (Moina), nhiệt độ nước vụ thu (tháng 8-10)
ổn định hơn, mùa xuân - hè thường có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa ngày và
đêm. Nhưng nguồn giống sản xuất vụ thu không xuất bán được do thời tiết mùa
đông tại Nghệ An khắc nghiệt, người nuôi không thả được giống. Vì vậy, cần phải
nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi lưu giữ cá giống qua mùa đông để cung cấp
sớm cho người nuôi từ đầu năm sau.
4. Kết quả triển khai mô hình nuôi thương phẩm cá tràu đen từ con giống
do dự án sản xuất
Sau 8 tháng nuôi tại Trại sản xuất giống thủy sản Yên Lý với số lượng 3000 con
(cỡ cá giống 6-8cm), trọng lượng cá đạt 0,6-0,8kg/con. Tại hộ gia đình ở Hưng
Nguyên, số lượng 5000con/500m2 ao (cỡ cá giống 6-8cm), trọng lượng cá đạt 0,5-
0,7 kg/con. Tại hộ gia đình ở Cửa Lò, số lượng 7.200 con (cỡ giống 6-8cm), trọng
lượng cá đạt 0,5-0,8 kg/con.
Qua kết quả triển khai nuôi thử nghiệm thương phẩm từ nguồn giống do dự án
sản xuất và đối chứng với nguồn giống nhập từ miền Nam về cho thấy: Nguồn
giống nhập từ miền Nam về khi thả vào bể thì có hiện tượng cá chết rải rác trong
10 ngày đầu. Đây là hiện tượng các hộ nuôi cá tràu trong tỉnh thường gặp trong
những năm qua, trong năm 2010 có nhiều hộ đã mất trắng ngay từ đợt thả giống
đầu tiên. Nguồn giống do dự án sản xuất khi thả để nuôi thương phẩm thì không
có hiện tượng cá chết rải rác, tỷ lệ hao hụt thấp.
Trong 3 mô hình triển khai nuôi thí điểm, mô hình nuôi trong bể của hộ gia
đình ông Long Vân tại Cửa Lò từ nguồn giống do dự án sản xuất đạt tỷ lệ sống cao
(năng suất đạt 25kg/m2), tuy nhiên kích cỡ cá thu hoạch sau 8 tháng nuôi chỉ đạt
0,5-0,8kg/con.
Mô hình nuôi trong ao tại Trại sản xuất giống thủy sản Yên Lý và tại hộ gia
đình ở Hưng Nguyên cho tỷ lệ sống tương đối cao nhưng kích cỡ cá thu hoạch sau
8 tháng nuôi không đồng đều. Tốc độ tăng trưởng của cá tại 2 bể nuôi (bể nuôi thử
nghiệm và bể nuôi đối chứng) không có sự chệnh lệch nhiều, mặc dù mật độ bể cá
nhập từ miền Nam về thấp hơn bể cá do dự án sản xuất (do cá bị chết trong 10
ngày đầu). Điều đó khẳng định con giống được sản xuất tại Nghệ An đảm bảo chất
lượng tốt.
5. Hiệu quả của dự án
Dự án sản xuất giống cá tràu đen thành công đã tạo điều kiện cho người nuôi
tiếp cận được nguồn giống tại chỗ đảm bảo chất lượng. Nếu nhân rộng mô hình
của dự án cho các cơ sở sản xuất, các hộ nuôi có điều kiện thì sẽ mang lại hiệu quả
lớn cả về mặt kinh tế và xã hội.
a. Hiệu quả kinh tế
Qua kết quả đạt được của mô hình nuôi thương phẩm khảo nghiệm chất lượng
con giống do dự án tạo ra, đồng thời so sánh với mô hình nuôi đối chứng và kết
quả của những năm thả giống nhập từ miền Nam cho thấy: mô hình sản xuất giống
tại chỗ cho hiệu quả kinh tế cao, cá giống có giá thành thấp hơn giống nhập từ
miền Nam, tỷ lệ sống trong quá trình nuôi thương phẩm cao hơn, chất lượng cá
giống ổn định phù hợp với điều kiện khí hậu tại địa phương.
Hiệu quả từ mô hình sản xuất cá giống: Chi phí đầu tư ban đầu là 26.510.000
đồng, doanh thu đạt 31.500.000 đồng, lợi nhuận trong sản
xuất giống đạt 4.990.000 đồng.
Hiệu quả từ mô hình nuôi thương phẩm: Trại sản xuất giống thuỷ sản Yên Lý
đạt lãi ròng 17.900.000 đồng; Hộ gia đình tại Hưng Nguyên đạt lãi ròng
28.550.000 đồng; Hộ gia đình tại Cửa Lò, mô hình nuôi giống do Dự án sản xuất
đạt lãi ròng 26.190.000 đồng; Mô hình nuôi giống nhập từ miền Nam đạt lãi ròng
18.160.000 đồng.
b. Hiệu quả xã hội
Kết quả của dự án đã được tập huấn cho bà con ngư dân, nhiều kinh nghiệm
chăm sóc cũng như công tác phòng trị bệnh cho cá tràu đã được bà con áp dụng
trong nuôi cá thương phẩm. Nhiều người dân nuôi cá trong tỉnh đến tham quan
học tập kinh nghiệm của dự án và được cán bộ kỹ thuật của đơn vị thực hiện dự án
tư vấn hỗ trợ kỹ thuật.
Khai thác tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy sản khá lớn, điều kiện tự nhiên
phù hợp cho cá tràu đen sinh sản, sinh trưởng, phát triển, dự án bước đầu đã xây
dựng được quy trình sản xuất giống cá tràu đen phù hợp với điều kiện sinh thái tại
Nghệ An. Mô hình sản xuất giống được nhân rộng sẽ tạo điều kiện cho phong trào
nuôi cá tràu tại Nghệ An phát triển bền vững.
Tuy nhiên, do thời tiết mùa đông tại Nghệ An lạnh nên việc triển khai lưu giữ
cá bố mẹ, tổ chức sản xuất giống sớm để cung cấp cho người nuôi kịp thời vụ còn
gặp khó khăn cần được nghiên cứu khắc phục để có thể nhân rộng mô hình./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngu_nghiep_11__1109.pdf