Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện đầu tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn hoá.

Không phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hoá không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị TW 10 khoá IX). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “.Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Qua hơn 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước sẽ chậm thoát nghèo. Còn coi nhẹ hội nhập văn hóa đôi khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của đất nước mình.

Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài: “Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm đề tài cho tiểu luận này.

 

doc10 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 2882 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận: Vận dụng quy luật phủ định vào xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến ... MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện đầu tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn hoá. Không phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hoá không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị TW 10 khoá IX). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “...Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Qua hơn 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước sẽ chậm thoát nghèo. Còn coi nhẹ hội nhập văn hóa đôi khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của đất nước mình. Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài: “Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm đề tài cho tiểu luận này. 2. Tình hình nghiên cứu: Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế mở. Tuy nhiên, việc hội nhập có mặt tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta tiếp thu không chọn lọc, thì bên cạnh những mặt tích cực của nền văn minh hiện đại, chúng ta dễ bị tiếp thu những những mặt tiêu cực. Mặt khác, chúng ta còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc, chạy theo các nước trên thế giới, bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi nền văn hoá của nước khác. Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản sắc riêng của mình. Bản sắc riêng của một dân tộc, giúp chúng ta phân biệt và nhận dạng rõ một quốc gia đó. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một việc tất yếu trong nền kinh tế mở hiện nay. Với những lý do trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Vì thế tình huống đặt ra trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là điều tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích nhiệm vụ. - Làm rõ vấn đề văn hoá và bản sắc văn hóa ở Việt Nam. - Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc việc xây dựng nền nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập ở nước ta. - Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Thành quả của vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta. NỘI DUNG Chương 1 Những vấn đề chung về quy luật của phủ định vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 1.1.Khái niệm phủ định biện chứng. Theo nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự không thừa nhận, bác bỏ hay sự thay thế một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong Triết học có hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phủ định. Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Quan điểm biện chứng cho rằng phủ định là khâu tất yếu của bất kỳ sự phát triển nào. Đó là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trên cơ sở mất đi của cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định (kết quả của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết định). 1.2. Nội dung quy luật: Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của tương lai. Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là do sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc". Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc". Trong quá trình vận động của sự vật, những yếu tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, trong đó những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định 2 lần của phủ định được thực hiện thì sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. 1.3. Ý nghĩa: Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kì một sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, nó gồm có nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sao bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển. Theo đó, mọi sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ. Do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn. Trong giới tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế trong hoạt động của chính mình con người phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó. Chương 2 Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 2.1. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập văn hóa và thế giới. Toàn cầu hóa là một xu thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các quốc gia. Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khôn ngoan, là khẳng định đường hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế hoạch cho từng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác được nhiều nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích nhất, hạn chế được đến mức thấp nhất những thách thức, những tiêu cực nảy sinh. Công cuộc đổi mới của đất nước ta hai mươi năm qua chính là sự chủ động hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển khá cao (từ 7,5 - 8% năm), cơ cấu kinh tế được chuyển địch theo hướng tích cực phát triển công nghiệp và dịch vụ, tốc độ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ với những bước đi dài... tất cả đã tạo điều kiện chín muồi để Việt Nam vững bước trên tiến trình hòa nhập Thương mại Quốc tế WTO. Chiến lược là vậy, hơn 20 năm hội nhập văn hóa thế giới quả là cuộc đấu tranh quyết liệt. Đánh giá về thành tựu hội nhập văn hóa có nhiều ý kiến khác nhau, không được đồng thuận như khi chúng ta đánh giá về thành tựu đổi mới kinh tế. Điều này chứng tỏ quá trình hội nhập văn hóa của chúng ta còn có những vấn đề non yếu. Không ai phủ nhận sau 20 năm đổi mới, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta được nâng cao, được mở rộng, phong phú đa dạng và giàu có hơn nhiều. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bên cạnh những mặt tốt đó, thì nhiều mặt tiêu cực của đời sống xã hội cũng nảy sinh. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, đời sống văn hóa bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội không còn được tôn trọng, một số mặt xấu được duy trì công khai không có người lên tiếng, nhiều tệ nạn không ngăn chặn được. Riêng về lĩnh vực văn học nghệ thuật, hơn 20 năm hội nhập thì văn chương nghệ thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác phẩm hay và những tác phẩm dở. Văn hóa bạo lực, tình dục ngang nhiên thách thức những thuần phong mỹ tục, những món hàng ăn liền rẻ tiền tấn công những giá trị sâu sắc, thâm nghiêm... Những tính chất văn chương nghệ thuật ngoại lai đó đôi khi còn có sức mạnh chiếm lĩnh hắn được một bộ phận làm nhiệm vụ sáng tạo, biểu diễn và một bộ phận công chúng nhất là khá đông đảo giới trẻ hoan hô môt cách vô tội vạ, "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” khá rầm rộ. Hội nhập thế giới, nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió lớn. Ở lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có tầm nhìn xa trông rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa hóa. Những bài học nào cũng chỉ có những giá trị nhất định chứ không thể là chìa khỏa vạn năng. Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây dựng quản lý văn hóa toàn xã hội là vô cùng khó khăn phức tạp, là thách thức lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm được. Với quyết tâm cao thì cuối cùng căn bệnh nào cũng tìm ra được thuốc đặc trị, cũng tìm được giải pháp giải quyết đúng đắn. Nền văn hóa Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển đã thể hiện sức sống mãnh liệt. Âm mưu đồng hóa của những nền văn hóa lớn hết đợt sóng này đến đợt sóng khác cũng không xóa được bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Có thể nói nền văn hóa Việt Nam đã được tôi luyện và có sức đề kháng cao. Điều này cho chúng ta tin tuởng vào chặng đường phát triển sắp tới của nền văn hóa dân tộc. Một vấn đề lớn và quan trọng đặt ra là: Nền văn hoá tiên tiến, hiện đại do hội nhập quốc tế hình thành có mâu thuẫn, có thủ tiêu nền văn hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của văn hoá truyền thống? Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh thần có cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội. Văn hoá, một khi ra đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống vật chất, nó trở thành thực thể độc lập với cơ sở kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh, những hệ tư tưởng, chính trị, văn hoá đã đóng vai trò điều chỉnh và qui định chiều hướng vận động của xã hội. Ngày nay, loài người càng nhận rõ rằng, văn hoá không chỉ là cái phái sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là động lực nội sinh của sự phát triển đó. Văn hoá Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn không bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị thôn tính, nhưng bản sắc đó không bao giờ mất, không những không mất mà nó ngày càng được khẳng định và phát triển. Mỗi lần tiếp biến, văn hoá Việt Nam với bản lĩnh và sức sống của mình, lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, nó gạn lọc, tiếp thu những tinh hoa tốt đẹp của các nền văn hoá khác trên khắp thế giới, làm giàu có và đậm đà thêm, phong phú thêm cho bản sắc của mình. Nói như vậy không có nghĩa hội nhập văn hóa chỉ có đem lại những thuận lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam. Chúng ta dể dàng nhận thấy: “Toàn cầu hoá và hội nhập” một mặt làm nâng cao chất lượng sống, mặt khác cũng hình thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến "sự va chạm" giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường như "mặc cảm" với lối sống đô thị và toán tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ "dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong công nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản với văn hoá trí tuệ và nền pháp lý chặt chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù hợp với truyền thống thanh đạm của con người Việt Nam… Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập công nghệ mà là hoạt động toàn diện khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất - quản lý kinh tế - xã hội. Sự hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hoá, trong đó, bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố không phù hợp với văn hoá truyền thống, thậm chí độc hại nữa. Chúng ta chủ động lựa chọn chính sách trong tiếp biến của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Những thế mạnh trong đối sách đó là tương đối bởi trình độ kinh tế - xã hội nước ta rất thấp so với các nước đầu tư vào ta. Trong biết bao loại đầu tư, ở đó đồng thời cũng kèm theo những dạng văn hoá nhất định. Cái ta cần, nói chung là vượt hẳn cái ta có khả năng cho. Trong một xã hội nghèo, sự thâm nhập ồ ạt từ bên ngoài làm đảo lộn nhiều thói quen, nếp sống, kể cả suy nghĩ của nhân dân ta trên một bình diện rộng hơn bao giờ hết. Những năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã có sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó diễn ra không chỉ ở bề ngoài mà cả ở chiều sâu. Sự khủng hoảng một số mặt trong nhiều phương diện đời sống đang hình thành liên quan đến từng gia đình. Trước đây một số người đi tìm sự thoả mãn lối sống của họ ở nước ngoài, thì nay lối sống đó đã nảy nở tại Việt Nam, trên một số lĩnh vực lối sống đó đã khống chế lối sống truyền thống Việt Nam, nhiều cách sinh hoạt, cách sống, cách nghĩ... thực sự đã xung đột với những chuẩn mực mà nhân dân ta cho là lành mạnh. Nhiều hiện tượng trước đây hoàn toàn xa lạ thì nay ở không ít người được xem như là chuyện bình thường: bạo lực, kích dâm, xem tiền là tối thượng, xem hưởng thụ vật chất là mục đích của cuộc đời. Đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự do, dân chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu không kịp thời ngăn chặn, đến một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc sẽ là cái bia bắn phá, lối sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng. 2.2. Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tôc. Hiện nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và những biến thể của nó đang là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm ở Việt Nam. Nỗi ám ảnh về bản sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngôn chính trị như "xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc", "hội nhập nhưng không hòa tan" cho đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội như xây dựng thương hiệu Việt, tự kiểm điểm tính cách dân tộc hay phê bình văn học nghệ thuật. Không thể phủ định, đây là một định hướng đúng đắn, một mối quan tâm lành mạnh của toàn xã hội khi Việt Nam ngày càng tham gia một cách toàn diện hơn vào quá trình toàn cầu hóa nhưng tự bản thân những khát vọng bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc cũng đặt ra những câu hỏi hóc búa đối với toàn xã hội, trước hết là trong việc xác định bản sắc văn hóa dân tộc và sau đó là việc ứng xử với bản sắc văn hóa đó. «Bản» là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật; «Sắc» là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam. Nói những hạt nhân giá trị hạt nhân tức là không phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực như: văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người Việt Nam. Những giá trị hạt nhân đó không phải tự nhiên mà có, nó được tạo thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng, củng cố và phát triển của nhà nước Việt Nam. Những giá trị đó không phải là không thay đổi trong quá trình lịch sử. Có những giá trị cũ, lỗi thời bị xóa bỏ, và có những giá trị mới, tiến bộ được bổ xung vào. Có những giá trị tiếp tục phát huy tác dụng, dưới những hình thức mới. Dân tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm nghiệm những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không nên có tư tưởng tĩnh và siêu hình đối với những giá trị hạt nhân đó, thậm chí đối với những giá trị mà chúng ta vốn cho là thiêng liêng nhất. Nếu dân tộc không có ý thức giữ gìn, bồi dưỡng, tái tạo để trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng cũng bị mai một và tàn lụi đi. Chúng ta thử so sánh bản sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong những người cuộc Cách mạng Tháng tám sôi sục, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ với cái gọi là "Bản sắc" chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong những năm tháng cuối đời nhà Nguyễn thì thấy rõ. Hay là đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời kỳ Lê Mạt với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời Lý -Trần. Không thể nói, đấy là cùng một bản sắc chủ nghĩa yêu nước được! Có người hỏi có thể có những giá trị bản sắc là tiêu cực, hay là đã nói bản sắc là nói cái gì tiến bộ, tích cực, xứng đáng được trao truyền và thừa kế. Như trên vừa nói, không nên có cái nhìn tĩnh tại và siêu hình đối với bản sắc dân tộc. Cái gì sống đều thay đổi và phải thay đổi. Bản sắc dân tộc cũng vậy. Giai cấp lãnh đạo phải sáng suốt và chủ động đối với quá trình diễn biến của bản sắc dân tộc. Những giá trị nào lỗi thời phải xóa bỏ, những giá trị mới nào cần bổ sung thêm vào, những giá trị nào cần kế thừa, nhưng dưới một hình thức mới, và hình thức mới đó thêm ra sao? Trong những bước chuyển cách mạng, những sự kiện đổi đời của dân tộc ta như cuộc cách mạng Tháng tám, chiến thắng của Ngô Quyền kết thúc đêm dài mười thế kỷ Bắc thuộc, sự kiện Tây Sơn..., bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ phải nghiêm túc kiểm nghiệm lại những giá trị bản sắc đương thời của dân tộc. Không phải không có lý do mà sau 10 thế kỷ Bắc thuộc, bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ đã gạt bỏ Nho giáo và chấp nhận tư tưởng Phật giáo. Cũng với những lý do xác đáng, dân tộc ta kinh qua cuộc cách Mạng tháng tám đã chấp nhận hệ tư tưởng Mác-Lênin như là dòng tư tưởng chủ lưu hiện nay của mình. Những cuộc kiểm nghiệm như thế cũng cần được tiến hành khi xảy ra giao tiếp văn hóa rộng rãi giữa các nền văn hóa khác nhau, ví dụ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Xô Viết, văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, văn hóa Việt Nam và văn hóa Âu, Mỹ... không có biên giới. Thời đại hiện nay là thời đại của kỹ thuật giao thông liên lạc và thông tin cực kỳ phát triển. Trái đất như bị thu nhỏ lại hàng mấy trăm lần, so với chục năm về trước. Do đó sự tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc sống cách xa nhau là tất nhiên và tất yếu. Qua những cuộc tiếp xúc đó, bản sắc văn hóa của các dân tộc đều có sự thay đổi, bên cạnh những cái khẳng định. Thật là vô lý nếu chúng ta gạt bỏ mọi yếu tố tiến bộ và cái hay, đẹp của văn hóa nước khác chỉ vì chúng ta sợ bị ngoại lai. Nhưng cũng sẽ là vô lý hơn, nếu chúng ta tiếp thu hàng loạt không có phê phán mọi yếu tố của văn hóa nước ngoài, chỉ vì chúng là mới lạ, tân kỳ. Những yếu tố tiến bộ của văn hóa nước ngoài, một khi đã được dân tộc ta chấp nhận và biến thành sở hữu của mình rồi, thì chúng có thể trở thành một bộ phận của giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Không ai có thể phủ nhận rằng, nhiều yếu tố Phật giáo, Nho giáo, mặc dù bắt nguồn từ nước ngoài, nhưng đã trở thành bộ phận khăng khít của bản sắc dân tộc và văn hóa Việt Nam, đã được dân tộc Việt Nam biến thành sở hữu thật sự của mình. Nói tóm lại, cái lỗi thời nhưng không được cải tiến, cái tốt nhưng lại bị cường điệu, cái tốt ngoại lai nhưng không được bản địa hóa nhuần nhuyễn đều có thể biến thành tiêu cực và tạo trở ngại cho sự phát triển bình thường của nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, mà chúng tôi khẳng định, những giá trị bản sắc của dân tộc Việt Nam, của nền văn hóa Việt Nam cần phải được bộ phận lãnh đạo của dân tộc thường xuyên kiểm nghiệm, theo dõi, gìn giữ, cải tiến, bổ sung, gạt bỏ những cái lỗi thời, đổi mới những hình thức không còn thích hợp, tiếp thu và bản địa hóa mọi tinh hoa của văn hóa nước ngoài... khiến cho những giá trị gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc ta phát huy tới mức cao nhất của hai tác dụng xúc tác và hội tụ, đối với sự phát triển toàn diện và mọi mặt của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác dụng xúc tác là tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển. Tác dụng hội tụ là tác dụng gắn bó, kết hợp với mặt, các yếu tố thành một hệ thống nhất. 2.3. Thành quả của việc vận dụng vào xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đối với nước ta những năm vừa qua, trong quá trình mở cửa giao lưu với thế giới, chúng ta không chỉ tiếp thu những giá trị hiện đại, tiên tiến mà còn bổ sung, điều chỉnh một số nét của các giá trị truyền thống cho phù hợp với thời đại, thẩm thấu và làm đa dạng thêm bản sắc của dân tộc. Chúng ta ngày càng ý thức rõ hơn về quá trình hội nhập. Trong quá trình thực tiễn phát triển đất nước, chúng đã được những thành quả trong việc xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa đó là: Quá trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng xích lại gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá trình này cũng sẽ tạo điều kiện cho thế giới luôn tồn tại trong sự thống nhất chung của tất cả những cái riêng, cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái riêng làm tiền đề cho nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiến bộ. Vận dụng quy luật phủ định của phủ định,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docv7853n d7909ng quy lu7853t ph7911 2737883nh.doc