Đổi mới căn bản, toàn diện quản lý giáo dục đại học và quản trị đại học phải tính đến
các đổi mới trong tri thức nhất là tri thức số hóa. Từ đó, bài viết tập trung làm rõ các
vấn đề như tri thức số hóa, thư viện số, các hướng phát triển thư viện số và quản lý
giáo dục đại học. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra giải pháp: đổi mới quản lý giáo dục
từ “không số” sang quản lý giáo dục số hóa. Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu bởi
phương pháp tổng quan tài liệu chuyên ngành và phân tích định tính. Các phương
pháp nghiên cứu nêu trên được sử dụng trong nghiên cứu trường hợp thư viện số
hóa của trường đại học nhằm làm rõ sự biến đổi của quản lý giáo dục theo xu thế tri
thức số hóa và trở thành quản lý giáo dục số hóa.
17 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 18/05/2022 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Quản lý giáo dục số hóa: Nghiên cứu trường hợp thư viện số của trường đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
d.
2 Trương Anh Hoàng - Nguyễn Văn Vinh. Nâng cao hiệu quả sách giáo dục với công nghệ. Trong
ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
3 Kiều Thúy Nga - Lê Đức Thắng. Trí tuệ nhân tạo và tiềm năng ứng dụng trong hoạt động thư
viện. Trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
4 Đặng Thanh Sơn. Dịch vụ tìm kiếm tập trung (Web Scale Discovery - WSD) tại website thư viện
các trường đại học - Sự lựa chọn cho mô hình thư viện thông minh. Trong ĐHQGHN, TTTT-TV
(2018). Sđd.
5 Vũ Minh Huệ - Nông Thị Bích Ngọc. Ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 tại
các cơ quan thông tin thư viện Việt Nam, trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
463Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...
Mặc dù hiện tại, nguồn tài nguyên thông tin số chưa đáp ứng được các yêu cầu người
sử dụng tin1, nhưng thư viện số đại học đang trở thành trung tâm hỗ trợ nguồn tài nguyên
thông tin số giúp người học tự học, tự nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu học thuật trong nền
công nghiệp 4.0.
Thư viện số hướng đến xây dựng và sử dụng Big Data. Meta Data để phục vụ “Người
dùng tin” (information user)2. Tuy nhiên, nếu chỉ nói đến “người dùng tin” thì có lẽ quá
chung chung nhất là khi bàn về vị trí, vai trò của thư viện số trong trường đại học đang được
đổi mới theo hướng tập đoàn. Thư viện số thông minh sử dụng Big Data, Meta Data để góp
phần hình thành, phát triển những phẩm chất, năng lực thông minh, sáng tạo ở người học,
người dạy và những người liên quan tới giáo dục, nghiên cứu khoa học ở đại học. Tương
tự, thư viện đại học không giản đơn góp phần phát triển hệ tri thức Việt số hóa (itrithuc.vn)
mà còn sử dụng hệ tri thức Việt số hóa để phục vụ giáo dục đại học và khoa học, công nghệ
của trường đại học.
Trong số các hướng phát triển các loại ứng dụng và dịch vụ của thư viện số có lẽ
cần đặc biệt đánh giá cao dịch vụ kiểm tra sự trùng lặp trong các văn bản tài liệu học tập,
nghiên cứu. Cụ thể ở đây là việc xây dựng và sử dụng Công cụ cải thiện tài liệu (Document
Improvement Tool, DoIT, Hệ thống trực tuyến hỗ trợ kiểm tra lỗi chính tả và kiểm tra trùng
lặp của các văn bản)3. Từ góc độ đổi mới quản trị đại học theo hướng tập đoàn hóa, công
nghệ này có vai trò bảo vệ người học, rèn luyện được phẩm chất nghiêm túc, trách nhiệm,
trung thực và dạy phòng, chống các biểu hiện của sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, chống
gian lận, “đạo văn” trong giáo dục và nghiên cứu khoa học trong trường học.
Trong mọi trường hợp nghiên cứu, triển khai các công nghệ, các tiện ích, các dịch vụ
thông tin và thư viện trong một trường đại học, có lẽ cần luôn luôn hướng đến phục vụ nhu
cầu học tập, nghiên cứu khoa học và cả nhu cầu đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp của nhà
trường. Quản lý giáo dục đại học dựa trên tri thức số hóa không chỉ nhằm mục tiêu nâng
cao chất lượng đào tạo mà còn nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học,
công nghệ và nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng. Cần nhấn mạnh rằng, theo cách tiếp
cận quản lý giáo dục kiểu truyền thống, “kinh điển” ở Việt Nam xếp thứ tự ưu tiên từ trên
xuống dưới là: đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng với tỉ lệ lượng hóa đầu
tư có lẽ đào tạo phải chiếm trên 70-80%. Theo cách tiếp cận hiện đại về quản lý giáo dục đại
học, thứ tự ưu tiên là nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng và đào tạo trong đó tỉ trọng
nghiên cứu khoa học có lẽ chiếm 80% bởi phần lớn nghiên cứu khoa học cũng nhằm phục vụ
cộng đồng và phục vụ đào tạo. Việc quản lý giáo dục đại học ưu tiên mục tiêu nghiên cứu
khoa học đòi hỏi phải coi trọng tri thức số hóa và thư viện số của trường đại học.
1 Nguyễn Hoàng Vĩnh Vương - Bùi Thị Phượng. Sự cần thiết của thư viện số tại trường Đại học Cần
Thơ đáp ứng xu thế học thuật của nền công nghiệp 4.0. Trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
2 Hoàng Văn Dưỡng. Dữ liệu lớn – Big Data với thư viện thông minh; Hoàng Văn Dưỡng – Nguyễn
Thị Hiền. VNU – LIC, tiên phong, thúc đẩy hệ tri thức Việt số hóa trong ĐHQGHN, TTTT-TV
(2018). Sđd.
3 Võ Đình Hiếu - Lê Bá Lâm. DoIT – Hệ thống kiểm tra trùng lặp văn bản, nâng cao chất lượng
tài liệu học tập và nghiên cứu cho các trường đại học ở Việt Nam trong ĐHQGHN, TTTT-TV
(2018). Sđd.
464 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
6. Giải pháp của các giải pháp: đổi mới quản lý giáo dục từ “không số” sang quản lý giáo dục số hóa
Quản lý giáo dục với tri thức số hóa cần được áp dụng “ngay và luôn” trong quản lý
thư viện số nói chung và thư viện số của trường đại học nói riêng. Để nâng cao vị thế, vai trò
của thư viện số đại học có thể áp dụng mô hình thư viện hiện đại của Việt Nam được đề xuất
bao gồm bốn yếu tố đã có ở các thế hệ thư viện 1.0, 2.0, 3.0 là: Công nghệ - Dữ liệu - Dịch vụ
- Con người1. Mô hình này cho thấy cần phải áp dụng đồng bộ các giải pháp về công nghệ,
dữ liệu, dịch vụ và con người. Một số tác giả khác nhấn mạnh các giải pháp phát triển thư
viện số thông minh như xây dựng cơ chế quản lý thông minh, đầu tư công nghệ thông minh,
xây dựng đội ngũ cán bộ thư viện thông minh, đào tạo người sử dụng dịch vụ thông minh2.
Việc nâng cao vị trí, vai trò của thư viện số đại học phụ thuộc vào các giải pháp tạo các
điều kiện thuận lợi để phát triển thư viện số. Về điều này một số tác giả nêu năm điều kiện
để phát triển thư viện số3: (i) Tư duy không gian đồng bộ thư viện từ nguồn thông tin đến tổ
chức các dịch vụ thư viện; (ii) Xây dựng được hạ tầng với các phần cứng như hệ thống máy
chủ, hệ thống lưu trữ dữ liệu lớn; (iii) Thiết lập đường truyền Internet; (iv) Hệ thống phần
mềm xử lý, khai thác thông tin; (v) Nguồn tài nguyên thông tin số. Một số tác giả khác nhấn
mạnh sáu điều kiện gồm4: (i) Chính sách đầu tư thích đáng cho thư viện, (ii) Lựa chọn ứng
dụng công nghệ phù hợp, (iii) Phát triển nguồn nhân lực thư viện có chất lượng, (iv) Ưu tiên
phát triển nguồn tài liệu điện tử song song với các giải pháp số hoá và xây dựng các bộ sưu
tập số trong thư viện các trường đại học, (v) Đổi mới cách thức tổ chức, giới thiệu và quảng
bá các dịch vụ thông tin thư viện tiện ích đến bạn đọc, (vi) Xây dựng hành lang pháp lý đặc
thù cho Dữ liệu lớn.
Các mô hình, các giải pháp, các điều kiện để phát triển thư viện số vừa nêu có lẽ đều
rất phù hợp với thực tế biến đổi thư viện từ truyền thống sang hiện đại nói chung và từ thư
viện của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang thư viện của cơ chế quản lý kinh tế
thị trường nói riêng ở Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo đòi hỏi phải đổi mới tư duy về thư viện số nói riêng và quản lý giáo dục đại học nói
chung. Phương châm của đổi mới ở đây là hãy “trả lại thư viện số đại học cho trường đại
học” và đồng thời “đem cả đại học vào trong thư viện số”. Thư viện số đại học phải là “thư
viện của đại học, do đại học và vì đại học” và có như vậy mới đảm bảo nâng cao được chất
lượng, hiệu quả học tập, giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ đáp ứng
yêu cầu phát triển xã hội bền vững, bao trùm.
Nghiên cứu trường hợp thư viện số hóa có thể nêu một số xu hướng đổi mới quản lý
giáo dục đại học như sau. Quản lý giáo dục ngày càng phải coi trọng yếu tố đầu vào của hệ
1 Lê Bá Lâm - Nguyễn Hồng Minh. Nghiên cứu phát triển của WEB cùng các “thế hệ thư viện” và
đề xuất mô hình thư viện đại học Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Trong
ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
2 Bùi Thị Thanh Diệu. Phát triển các dịch vụ thư viện thông minh dưới tác động của xã hội hiện
đại. Trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
3 Trần Thị Hồng Nhiên - Lê Mạnh Hà. Dịch vụ phân phối thông tin chọn lọc trước tác động của
cách mạng công nghiệp 4.0. Trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
4 Trương Thị Hồng Quyên - Phạm Thị Thu. Tác động của Big Data tới hoạt động thư viện tại Trung
tâm Thông tin – Thư viện ĐHQGHN, trong ĐHQGHN, TTTT-TV (2018). Sđd.
465Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...
thống giáo dục trong đó yếu tố trực tiếp quan trọng hàng đầu là “tuyển sinh”. Thư viện số,
tri thức số hóa cần phải giúp quản lý giáo dục nắm chắc tình hình tuyển sinh: ví dụ, có thể
tiếp cận được bao nhiêu phần trăm dân số có nhu cầu đào tạo đại học? Các thông tin tuyển
sinh nhất là thông tin tư vấn tuyển sinh có thể tiếp cận, bao phủ, đáp ứng được bao nhiêu
phần trăm các thí sinh tiềm năng? Có thể cập nhật các thông tin về tuyển sinh với tốc độ và
phạm vi như thế nào? Câu hỏi cơ bản ở đây là thư viện số, tri thức số hóa có thể giúp nhà
trường quản lý tuyển sinh như thế nào để đảm bảo đạt mục tiêu số lượng và chất lượng
tuyển sinh? Yếu tố thứ hai là đào tạo với câu hỏi cơ bản là: thư viện số, tri thức số hóa có thể
đảm bảo được bao nhiêu phần trăm người học tiếp cận được thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời về mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, chương trình từng học phần, từng môn học?
Bao nhiêu phần trăm người học tiếp cận được bao nhiêu phần trăm tài liệu số hóa để học tập?
Bao nhiêu phần trăm người học được kết nối theo nhiệm vụ học tập qua mạng với nhau và
với giảng viên, nghiên cứu viên và quản lý nhà trường. Quản lý giáo dục theo kiểu cũ chỉ bó
hẹp trong phạm vi một lớp, một môn, một học phần. Quản lý giáo dục với tri thức số hóa có
thể mở rộng không giới hạn các mối tương tác học hỏi, nghiên cứu giữa người học với nhau
và với giảng viên, nghiên cứu viên và người quản lý trong và ngoài trường, “ngay và luôn”.
Về giảng dạy và nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, câu hỏi có thể đặt ra đối với
quản lý giáo dục là những tri thức khoa học mới nhất được số hóa chiếm bao nhiêu phần
trăm và trong đó bao nhiêu tri thức khoa học số hóa mới nhất đó đến được với người học,
giảng viên, nhà khoa học và nhà quản lý. Quản lý giáo dục theo kiểu cũ chủ yếu quan tâm
tới đào tạo và hoạt động học tập của người học mà xem nhẹ hoạt động nghiên cứu khoa học.
Điều này thể hiện rõ qua việc các đề tài luận văn thạc sỹ, tiến sỹ vẫn còn thiếu tính mới và
chủ yếu được xem như là một dạng bài tập. Quản lý giáo dục theo xu thế tri thức số hóa đề
cao hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ với tính mới, tính sáng tạo mà thư viện số có
thể vừa là công cụ, phương tiện vừa là nguồn động lực quan trọng. Quản lý giáo dục kiểu
cũ rất coi trọng công tác sinh viên trong khi sinh viên đang học ở trường. Quản lý giáo dục
hiện đại dựa vào tri thức số hóa coi trọng thông tin về việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Câu
hỏi là tri thức số hóa giúp nhà trường tiếp cận và nắm bắt được thông tin về bao nhiêu phần
trăm sinh viên tốt nghiệp và trong thời gian bao lâu kể từ khi tốt nghiệp? Mục đích của việc
tri thức số hóa về sinh viên tốt nghiệp là tìm cách hỗ trợ “bảo hành” kiến thức, năng lực, kỹ
năng của sinh viên tốt nghiệp và đổi mới các hoạt động của nhà trường để góp phần phát
triển thị trường lao động, việc làm.
Tóm lại, rất nhiều biến đổi mới đối với tri thức của con người trong xã hội đang toàn
cầu hóa, hội nhập thế giới và Cách mạng 4.0. Nghiên cứu trường hợp thư viện số hóa cho
thấy trên thế giới đã xuất hiện “thời đại tri thức số hóa” với các loại thư viện số, thư viện
thông minh và cả trường học thông minh, lớp học thông minh với đặc trưng là sử dụng và
phát triển các phương tiện, kỹ thuật, công nghệ số trên nền tảng mạng. Ở Việt Nam, điều
này tạo áp lực và động lực đổi mới căn bản, toàn diện quản lý giáo dục từ “không số” sang
quản lý giáo dục số hóa. Một biểu hiện rõ ràng của quá trình đổi mới này là sử dụng thư
viện số và tri thức số hóa trong quản lý giáo dục từ đầu vào đến quá trình và đến đầu ra của
giáo dục nhằm tạo ra hệ thống giáo dục kết nối “ngay và luôn”.
466 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Tài liệu tham khảo
1. Arms, W. Y. (2000), Digital Libraries. Cambridge MA: The MIT Press.
2. Berners-Lee, T., Hendler, J., and Lassila, O. (2001). The Semantic Web. Scientific American,
284 (5).
3. Borgman, C.L. (1999) What are digital libraries? Competing visions. Information
Processing & Management, 35 (3) 227-243;
4. Borgman, C. (2000). From Gutenberg to the Global Information Infrastructure: Access
to information in the networked world. Cambridge, MA: MIT Press.
5. Borgman (Christine L). What are digital libraries? Computer Vision. Information
Processing. Vol. 35; 1996; p227-43; Mohd Nazim. Managing digital libraray
content: issues and challenges. SRELS Journal of Information Management Vol.
46, No. 1, March 2009. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Digital%20
Library/11Managingdigitallibrarycontent.pdf
6. Brundaban Nahak, Partha Sarathi Patra. Planning, Designing and Developing of
Digital Libraries and Digital Preservation. file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20
Digital%20Library/41.pdf.
7. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Thông tin – Thư viện (2018), Thư viện thông minh
4.0: Công nghệ - Dữ liệu - Con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Elena Macevičiūt. Education for digital libraries: library management perspective. 2011.
file:///C:/Users/Admin/Downloads/2019%20Digital%20Library/10.1.1.471.6718%20(1).pdf.
9. Brangier E., Dinet J., Eilrich L., (2009). The 7 Basic Functions of a Digital Library -
Analysis of Focus Groups about the Usefulness of a Thematic Digital Library on the
History of European Integration, Berlin, NXB Springer-Verlag Berlin Heidelberg.
10. Lê Ngọc Hùng (2019), Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: Lý thuyết hệ thống và kiến
tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 3/2019.
11. Lê Ngọc Hùng, Bùi Thị Phương (2019), “Vị trí, vai trò của thư viện số hóa trong đổi mới
quản trị đại học theo hướng tập đoàn hóa ở Việt Nam”. Trong Đại học Quốc gia Hà Nội,
Trung tâm Thư viện. Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ - Doanh nghiệp – Thư viện.
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 2019. Tr. 187-206.
12. Lê Ngọc Hùng (2015), Hệ thống, cấu trúc & phân hóa xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2015.
13. Joseph S. Nye, Jr (2010), Tương lai của quyền lực, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội,
2016, Tr. 37.
14. Lesk, M.E. (1997). Practical digital libraries: Books, bytes, and bucks. San Francisco:
Morgan Kaufman.
15. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định Số: 677/QĐ-TT ngày 18 tháng 05 năm 2017 về
việc Phê duyệt Đề án “Phát triển Hệ tri thức Việt số hóa”.
467Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...
16. Peter Drucker (1995), Xã hội hậu tư bản, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,
Hà Nội, 1995.
17. Yerkey, A.N. and Jorgensin, C. (1996), “A course in digital libraries’’, DESIDOC Bulletin
of Information Technology, Vol. 16 No. 1, pp. 31-9.
18. John McGinty (2009). Digital Libraries Need Digital Organization: Identifying, Defining,
and Creating New Academic Library Management Structures. file:///C:/Users/Admin/
Downloads/2019%20Digital%20 Library/298%20good.pdf.
19. Shen, R., Goncalves, M.A., Fox, E.A. (Eds.) (2013). Key Issues Regarding Digital
Libraries: Evaluation and Integration. Carolina, NXB Morgan and Claypool Publishers.
468 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
DIGITIZALIZED EDUCATION MANAGEMENT: CASE STUDY OF THE
UNIVERSITY’S DIGITAL LIBRARY
Le Ngoc Hung1
Abstract
New changes in knowledge, especially digitalized knowledge must be considered
in basic and comprehensive innovation in higher education management and
administration. On this fact, the article has focused on clarifying issues such as
digitalized knowledge, digital library, digital library development directions, and
higher education management. On this basis, the article gives a solution: renovating
educational management from “zero” to digitalized education management. The
study is conducted mainly by specialized literature review and qualitative analysis.
The above-mentioned study methods are used in the case study of the university’s
digital library in order to clarify the transformation of educational management in the
trend of digitalized knowledge and becoming digital education management.
Keywords: Digitalized knowledge; Digital library; Digitalized education; Digitalized
education management.
1 VNU University of Education, Vietnam National University, Hanoi; Mobile: 0904110197;
Email: hungxhh@gmail.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_ly_giao_duc_so_hoa_nghien_cuu_truong_hop_thu_vien_so_cu.pdf