Quan điểm về dân của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó trong việc phát huy quyền dân chủ ở Việt Nam hiện nay

Quan điểm về dân của Nguyễn Trãi là sự hội tụ những giá trị tinh

hoa, đạo lý của dân tộc, của thời đại và của một trí tuệ tài ba với trái tim luôn đập

cùng nhịp đập của những người dân đau khổ. Bài viết đã phân tích một số nội dung

chủ yếu trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi như khái niệm về dân, vai trò của

dân và tư tưởng an dân. Qua đó, cho thấy trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi

mang đậm tính chất nhân văn, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Và qua đó đã

để lại cho thế hệ sau một nền tảng tư tưởng đậm đà bản sắc dân tộc về quyền dân

chủ của dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Một quan

điểm rõ nét về tầm quan trọng của người “dân” trong xã hội thời ấy và bấy giờ

pdf16 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Quan điểm về dân của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó trong việc phát huy quyền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n tộc dân chủ nhân dân, trong Đảng ta đã xuất hiện những biểu hiện làm nguy hại đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Sự xuất hiện của “bệnh chủ quan, duy ý chí”, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, “lời nói không đi đôi với việc làm”, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, không lắng nghe ý kiến của quần chúng... đã làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng [3, tr.25 - 27]. Nhận thức đƣợc nguy hiểm của những biểu hiện tiêu cực nêu trên, trong Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm cho quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong đó, bài học đầu tiên mà Đảng ta nêu ra là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân” [3, tr.28]. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đƣợc trình bày tại Đại hội VII tiếp tục khẳng định “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Nhân dân chính là lực lƣợng to lớn đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Mọi chủ trƣơng, đƣờng lối và hoạt động của Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Cƣơng lĩnh cũng nhấn mạnh: “Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đƣa đến những tổn thất không lƣờng đƣợc đối với vận mệnh đất nƣớc” [3, tr.311]. Nhƣ vậy, trong toàn bộ quan điểm của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Nhân dân chính là động lực to lớn của mọi thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, chủ trƣơng, đƣờng lối đƣợc lòng dân, đƣợc nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã kết thành một khối vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thƣờng xuyên chăm lo lợi ích của nhân dân, vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên đƣợc dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quan 185 liêu, nhũng nhiễu, ức hiếp dân thì ở đó sẽ quan hệ giữa Đảng và nhân dân trở nên lỏng lẻo, nhân dân sẽ không tin và theo Đảng. Vì vậy, trong Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta luôn nhấn mạnh: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân” [4, tr.89]. Qua 30 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, tuy có lúc, có nơi vẫn còn những khuyết điểm, hạn chế, song với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, nâng cao trình độ dân trí, mở rộng dân chủ trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố đƣợc niềm tin của nhân dân, khơi dậy đƣợc những tiềm năng mới, tạo ra đƣợc những xung lực mới cho cách mạng trong giai đoạn mới. Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục thực hiện tốt quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy quyền dân chủ của Nhân dân, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là cơ sở đảm bảo vững chắc để có độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới thực sự kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân; đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đƣa nhân dân thực sự trở thành chủ thể của xã hội, làm chủ vận mệnh dân tộc và làm chủ chính bản thân mình. Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm tăng cƣờng sức mạnh của Đảng và khơi dậy lòng tin của nhân dân vào Đảng; đồng thời tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh rằng: Hễ khi nào và nơi nào mà Đảng không thƣờng xuyên đổi mới, không thƣờng xuyên tự chỉnh đốn thì lúc đó Đảng sẽ tự đánh mất vai trò lãnh đạo của mình. Trong bối cảnh hiệ ả - ả 186 xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạ ảng thực sự l “văn minh” đòi hỏi các cấp ủy, tổ chứ ả ế ộ, đảng viên tiếp tục thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 4 khóa XI. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc thông qua đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính và nâng cao chất lƣợng của hoạt động tƣ pháp theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời. Ngoài ra, cần tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phƣơng các cấp nhằm đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Thứ ba, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 18 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, trong Chỉ thị này Bộ Chính trị đã chỉ rõ trong quá trình lãnh đạo cách mạng (nhất là trong sự nghiệp đổi mới hiện nay), Đảng ta bƣớc đầu đã “phát huy một bƣớc quyền làm chủ của nhân dân”, song nhìn chung “quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chƣa đẩy lùi, ngăn chặn đƣợc. Phƣơng châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chƣa đƣợc cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống”. Vì vậy, mục tiêu của Chị thị 30-CT/TW là nhằm “phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất” [12]. Trong quá trình thực hiện Chỉ thị 30, mặc dù đã góp phần đổi mới phƣơng thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nƣớc; đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gƣơng mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công 187 chức theo hƣớng sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhƣ tinh thần Kết luận số 65- KL/TW ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Ban Bí thƣ về Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã nêu ra. Song bên cạnh đó, trong quá trình triển khai Chỉ thị 30 không ít nơi còn hình thức, chất lƣợng chƣa cao, chƣa thành nền nếp, “một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chƣa đƣợc ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hƣởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền” [12]. Chính vì vây, trong thời gian tới để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở một mặt tăng cƣờng công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; không ngừng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về phát huy quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện và thể chế hóa các chủ trƣơng của Đảng về dân chủ và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; trách nhiệm của chính quyền về thực hiện quy chế dân chủ; tiếp tục chỉ đạo cụ thể hóa phƣơng châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ở cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cơ sở 3. Kết luận Trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, kể từ khi Ngô Quyền xác lập đƣợc nền độc lập cho đến nay, tƣ tƣởng dân là gốc nƣớc luôn là tƣ tƣởng chính trị quan trọng và xuyên suốt. Lịch sử dân tộc đã kiểm chứng, bất kỳ ở giai đoạn nào nếu nhà cầm quyền biết quan tâm và chăm lo tới đời sống của nhân dân, đƣợc lòng dân thì chính quyền đƣợc củng cố, đất nƣớc hƣởng cảnh thái bình; còn khi chính quyền xa dân, nhiễu dân thì vận nƣớc suy. Chính vì vậy, phƣơng châm dân là gốc nƣớc đã trở thành triết lý hành động của các triều đại phong kiến Việt Nam trong việc củng cố chính quyền, ổn định xã hội, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Trong dòng chảy đó, quan niệm về dân của Nguyễn Trãi là sự phát triển cao hơn quan điểm về dân trong tƣ tƣởng Việt Nam thời Lý – Trần và có thể nói là đỉnh cao trong giai 188 đoạn lịch sử tƣ tƣởng trung đại Việt Nam; quan niệm đó chứa đựng nhiều yếu tố, nhiều giá trị tích cực và mang đậm tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Cùng với quá trình phát triển của dân tộc, tƣ tƣởng thân dân đƣợc bổ sung thêm những giá trị mới tiến bộ, nhằm đáp ứng đƣợc đòi hỏi mới của thực tiễn đất nƣớc. Trong giai đoạn phát triển đất nƣớc hiện nay, thấm nhuần tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bài học “nước lấy dân làm gốc” sẽ là cơ sở, là nền tảng để phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội” nhƣ tinh thần Đại hội XI của Đảng đã đề ra./. Tài liệu tham khảo [1]. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [2]. Dịch giả Đoàn Trung Còn (2006), Tứ thư (bộ 4 tập), Nxb. Thuận Hóa, Huế. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. [5]. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. [6]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. [7]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. [8]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. [9]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. [10]. Nguyễn Hữu Sơn (2001), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội. [11]. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [12]. www.dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_diem_ve_dan_cua_nguyen_trai_va_y_nghia_cua_no_trong_vie.pdf