Khi hợp chủng quốc Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, những nhà nghiên cứu xã hội học của Mỹ được yêu cầu nghiên cứu về vấn đề phát triển của thế giới thứ 3. Đây chính là khởi điểm của trường phái hiện đại hóa - trường phái thống trị lĩnh vực phát triển trong suốt những năm 1960. Tuy nhiên sự thất bại của chương trình hiện đại hóa ở Mỹ La Tinh trong những năm 1960 đã dẫn tới sự ra đời của trường phái phụ thuộc hiện đại Marxist. Trường phái phụ thuộc này bị phê phán khắt khe, bởi trường phái hiện đại hóa luôn luôn chỉ trích vào sự hợp lý hóa của chủ nghĩa đế quốc. Từ Mỹ La Tinh trường phái Phụ Thuộc đã nhanh chóng lan rộng đến hợp chủng quốc Hoa Kỳ, bởi nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chống chiến tranh của nhiều sinh viên người Mỹ.
Mặc dù trường phái Phụ Thuộc không thể phá hủy được trường phái Hiện Đại Hóa nhưng cũng không thể loại trừ quan điểm chống đối không chính đáng của mình. Sự đồng tồn tại của hai viễn cảnh trái ngược nhau trong lĩnh vực phát triển đã tạo nên trong những năm 1970 trở thành thời đại của trí tuệ.
16 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Quan điểm, cách tiếp cận của trường phái hệ thống thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
BỐI CẢNH LỊCH SỬ………………………….……………………………...2
Bối cảnh……………………………………….……………………………2
Nguyên nhân ra đời của trường phái……….…………………………….2
THỪA KẾ LÝ THUYẾT……………………….……………………………..3
Nền tảng lý thuyết…………………………….……………………………3
Quan điểm…………………………………….…………………………….4
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………………………….5
Trên nguyên tắc khoa học xã hội………………………………………….5
Trong lịch sử và khoa học xã hội………………………………………….6
Trên một đơn vị phân tích: Xã hội chống lại hệ thống lịch sử…………..6
Trên định nghĩa của chủ nghĩa tư bản……………………………………7
Trên sự tiến bộ………………………………….…………………………..8
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC NƯỚC TRUNG GIAN……...………………………9
Từ ngoại vi đến trung gian thế giới……………………………………….9
Từ vị trí trung gian lên vị trí trung tâm…………………………………10
Chú ý trong chiến lược xã hội hoá đất nước…………………………….11
LỊCH SỬ CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI TBCN………………………...12
Trước năm 1945…………………………………………………………..12
Từ sau năm 1945………………………………………………………….13
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu…………………………………...13
SO SÁNH TRƯỜNG PHÁI SỰ PHỤ THUỘC VÀ TRƯỜNG PHÁI HỆ THỐNG THẾ GIỚI…………………………………………………………..14
QUAN ĐIỂM, CÁCH TIẾP CẬN
CỦA TRƯỜNG PHÁI HỆ THỐNG THẾ GIỚI
(THE WORD SYSTEM PERSPECTIVE)
BỐI CẢNH LỊCH SỬ.
Bối cảnh:
Khi hợp chủng quốc Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, những nhà nghiên cứu xã hội học của Mỹ được yêu cầu nghiên cứu về vấn đề phát triển của thế giới thứ 3. Đây chính là khởi điểm của trường phái hiện đại hóa - trường phái thống trị lĩnh vực phát triển trong suốt những năm 1960. Tuy nhiên sự thất bại của chương trình hiện đại hóa ở Mỹ La Tinh trong những năm 1960 đã dẫn tới sự ra đời của trường phái phụ thuộc hiện đại Marxist. Trường phái phụ thuộc này bị phê phán khắt khe, bởi trường phái hiện đại hóa luôn luôn chỉ trích vào sự hợp lý hóa của chủ nghĩa đế quốc. Từ Mỹ La Tinh trường phái Phụ Thuộc đã nhanh chóng lan rộng đến hợp chủng quốc Hoa Kỳ, bởi nó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chống chiến tranh của nhiều sinh viên người Mỹ.
Mặc dù trường phái Phụ Thuộc không thể phá hủy được trường phái Hiện Đại Hóa nhưng cũng không thể loại trừ quan điểm chống đối không chính đáng của mình. Sự đồng tồn tại của hai viễn cảnh trái ngược nhau trong lĩnh vực phát triển đã tạo nên trong những năm 1970 trở thành thời đại của trí tuệ.
2. Nguyên nhân ra đời của trường phái:
Vào giữa những năm 1970 cuộc chiến đấu về hệ tư tưởng giữa trường phái Hiện Đại Hóa và trường phái Phụ Thuộc bắt đầu lắng xuống. Cuộc tranh luận về sự phát triển ở thế giới thứ ba trở nên ít hệ tư tưởng và đầy ướt át. Một nhóm các nhà nghiên cứu cấp tiến dẫn đầu bởi Immanuel Wallerstein phát hiện ra rằng đã có rất nhiều hoạt động trong hệ kinh tế tư bản của thế giới không thể giải thích được trong phạm vi hạn chế của viễn cảnh phụ thuộc.
Thứ nhất, ở Đông Á (Nhật Bản, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Hồng Kông và Singapore) vượt qua những tăng trưởng đáng kinh ngạc về kinh tế. Càng ngày việc khắc họa kỳ diệu nền kinh tế ở Đông Á càng trở nên khó khăn hơn như “chủ nghĩa đế quốc Thuộc địa” “sự phát triển Phụ thuộc” phụ thuộc mạnh mẽ bởi lẽ nền công nghiệp ở Đông Á đang thách thức nền kinh tế thượng đẳng Hoa Kỳ.
Thứ hai, có một sự khủng hoảng trong học thuyết kinh tế và chính trị giữa các nước XHCN, sự chia rẽ Trung Hoa, Xô Viết, sự thất bại của cuộc cách mạng văn hóa, sự trì trệ của nền kinh tế trong nước XHCN, sự mở cửa dần dần của các nước XHCN để đầu tư tư bản mang dấu hiệu đổ vỡ. Rất nhiều những nhà nghiên cứu cấp tiến bắt đàu cân nhắc lại liệu nền kinh tế tư bản có thực sự phù hợp để áp dụng ở các nước thế giới thứ 3.
Thứ ba, xuất hiện sự khủng hoảng trong tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, các lệnh cấm vận dầu mỏ vào năm 1975 kết hợp với sự trì trệ, lạm phát trong cuối thập niên 70 ngày càng gia tăng. Quan điểm và chế độ bảo vệ nền công nghiệp trong nước, sồ tiền thiếu hụt chưa từng có của Chính Phủ và sự gia tăng thiếu sót trong thương mại vào nhưng năm 1980.
Tất cả những dấu hiệu đó đã chấm dứt quyền bá chủ trong nền kinh tế TBCN của Mỹ. Thêm vào đó xuất hiện một chính phủ vững chắc hướng về liên minh trong hệ thống giữa các tiểu bang. Liên minh mới nhất giữa OaSinhTon, DC Bắc Kinh, Tokyo không phải trong điều khoản của các dòng tư tưởng chiến tranh lạnh trong những năm 1950.
=> Với mục đích suy nghĩ lại những vấn đề quan trọng nổi lên trên toàn thế giới làm thay đổi nền kinh tế trong hai thập kỉ qua, Wallerstein và những người cộng sự đã phát triển một hệ thống triển vọng cho thế giới.
Immanuel Wallerstein được sinh ra vào năm 1930 tại New York, nơi ông đã lớn lên và đã dành tất cả thời gian của mình cho việc nghiên cứu. Ông gia nhập vào Đại học Columbia là một giảng viên đây từ 1958-1971.
Trường phái này sở hữu học thuyết “Sáng Tạo” tại trung tâm Fernarbraunrel về nghiên cứu nền kinh tế, tiến trình lịch sử và khai hóa văn minh dân tộc tại trường đại học công lập của Newyork Binghanton. Trung tâm Fernarbraunrel xuất bản lại cuốn tạp chí hằng ngày, thể hiện cho tính cứu vớt trong nghiên cứu kinh tế suốt một giai đoạn lịch sử dài, trên một không gian rộng lớn bao quát của phương pháp lịch sử xã hội và sự nhất thời tự nhiên của những học thuyết. Trung tâm cũng xuất bản những tạp chí nghiên cứu dài kỳ giống những bức thư có tin tức gửi kèm thường xuyên về các tỉnh trên các hoạt động nghiên cứu của mình. Thêm vào đó trường phái “Hệ thống thế giới” thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ chuyên nghiệp hằng năm và xuất bản những cuốn tài liệu của những cuộc hội nghị này.
Theo Chirot và Hall hệ thống triển vọng thế giới này đã nắm bắt những ý tưởng của xã hội học đương đại và tác động sâu sắc một cách ấn tượng lên các điều lệ của xã hội học. Một tiêu đề nặng thành kiến kinh tế chính trị của hệ thống thế giới được xuất bản trong hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ vào những năm 1970. Đã có một sự bắt đầu trong môn xã hội học. Bây giờ chúng đã mở rộng những ảnh hưởng của mình đến ngành nhân chủng học, lịch sử, khoa học chính trị và cả những quy hoạch đô thị. (Bergeen 1983; Bergquist 1984; Chase-Dum 1982b; Chirot 1976; Evans và cộng sự 1985; Friedman 1982; Goldfrank 1979; Hechter 1975; Henderson và Castells 1987; Hopkins và Wallerstein 1980,1982; Kaplan 1978; Moulder 1977; Nash 1981; Robinson 1981; Thompson 1983).
THỪA KẾ LÝ THUYẾT.
1. Nền tảng lý thuyết:
Trước khi trình bày các khái niệm quan trọng và lý thuyết của hệ thống thế giới; thì chúng ta xem xét hệ thống thế giới đã thừa kế lại những lý thuyết nào? Theo quan điểm của Kaye (1979), Wallerstein hệ thống quan điểm của thế giới đã rút ra trên hai nguồn chính: trí tuệ của dân chủ của tân chủ nghĩa Marxist văn học của sự phát triển và các trường phái Annales ở Pháp.
Wallerstein bắt đầu như một chuyên gia về Châu Phi. Việc nghiên cứu trước đó của ông là về vấn đề phát triển mà Châu Phi phải đối mặt sau độc lập (Wallerstein 1964,1967). Do vậy, trong giai đoạn đầu tiên của ông về xây dựng trên hệ thống quan điểm thế giới, Wallerstein đã ảnh hưởng mạnh mẽ của tân văn học của chủ nghĩa Marxist về sự phát triển.
Ông đã kết hợp nhiều khái niệm từ trường phái phụ thuộc như trao đổi bất bình đẳng, sự bóc lột của trung tâm đối với ngoại vi và trên thế giới-thị trường thế giới vào hệ thống các quan điểm. Wallerstein cũng được thông qua nhiều giáo lý cơ bản của trường phái phụ thuộc; chẳng hạn như tranh luận rằng “sự phong kiến” của các hình thức sản xuất với nhiều đặc tính của lịch sử người Mỹ không phải là kéo dài từ quá khứ mà là sản phẩm của mối quan hệ lịch sử Mỹ La Tinh với các nước trung tâm (Kaye 1979, tr.409). Trong thực tế Wallerstein (1979a, tr.53) đã bao gồm các khái niệm của Frank, Dos SanTos và Amin như là một phần thế giới của mình. Quan điểm hệ thống, trên cơ sở đó có những khái niệm chung một phê phán của cả hai trường phái hiện đại hóa và quan điểm phát triển của Marxist.
Tuy nhiên ở giai đoạn sau, khi Wallerstein đã phát triển đầy đủ quan điểm hệ thống thế giới của mình, dường như là ông đã vượt ra ngoài miền của tân chủ nghĩa Marxist. Sự phụ thuộc Marxist định hướng Wallerstein có thể được giải thích bởi ảnh hưởng mạnh mẽ của Fernand Braudel và trường phái Annales của Pháp về quan niệm của Wallerstein về hệ thống thế giới (Wallerstein 1978, 1979c, 1982, 1986, 1988a).
Trường phái Annales nổi lên như là một cuộc biểu tình chống lại sự phát triển của môn khoa học xã hội. Thông qua các tác phẩm trong thời gian dài lãnh đạo mình, Fernand Braudel, trường phái Annales tiên tiến đã có các quan điểm sau:
Trước tiên, Braudel tìm cách phát triển “tổng” lịch sử hay “toàn cầu” lịch sử. Nếu lịch sử không phụ thuộc vào ngành học khác, từ quan điểm lịch sử là tất cả. Braudel đã lập luận rằng các nhà sử học phải trực tiếp quan sát tới tổng thể của lĩnh vực xã hội. Wallerstein (1988a, tr.5) phát biểu: “Đây thực sự là tầm nhìn của lịch sử mà nổi lên trong (của ông Braudel) Địa Trung Hải, không phải nội dung để dừng lại ở bờ biển nội địa là…, bắt đầu ở vùng núi và mở rộng không chỉ cho các sa mạc nóng của châu Phi mà còn đến các sa mạc lạnh của Trung Quốc, chuỗi đảo một thế giới xa và về phía tây, nó kéo dài đến Mexico và Lima, đến Acapulco và La Mã, và trở về Trung Quốc”.
Thứ hai, Braudel lập luận “Để tổng hợp của lịch sử và khoa học xã hội thông qua một nhấn mạnh vào sự lâu dài”. Bằng cách đó lịch sử sẽ di chuyển từ tính độc đáo của các sự kiện và khoa học xã hội sẽ đạt được một quan điểm lịch sử dưới nhiều nỗ lực của mình để xây dựng lý thuyết lịch sử (Kaye 1979, tr.409). Một quá trình lịch sử diễn ra lâu dài, trong đó tất cả các thay đổi chậm, một lịch sử của sự lặp lại liên tục, thậm chí theo định kỳ các chu kỳ nó chỉ thông qua việc nghiên cứu lâu dài mà các thuộc thể, các lớp sâu nhất của đời sống xã hội và các cơ cấu liên tục của lịch sử được tiết lộ.
Thứ ba, Braudel là công cụ chuyển đổi trung tâm của mối quan tâm trong lịch sử từ các thời kì lịch sử của vấn đề theo định hướng lịch sử. Wallerstein(1988, tr.7) chỉ ra, công việc của Braudel được đặc trưng bởi “sự sẵn lòng của ông để hỏi lớn câu hỏi: Chủ nghĩa tư bản là gì? Sự thất bại của Pháp bao giờ mới hết để có thể thống trị Châu Âu? Làm thế nào Châu Âu phát triển để thống trị toàn cầu? Tại sao trung tâm của sự hấp dẫn kinh tế chuyển dịch từ vùng Địa Trung Hải đến Bắc Đại Tây Dương?... Đó là lo sợ của lịch sử, lịch sử trên quy mô lớn, trong đó có lịch sử chết”.
2. Quan điểm.
Đối với Wallerstein: “một hệ thống thế giới là một hệ thống xã hội, một trong đó có ranh giới, cấu trúc, các nhóm thành viên, các quy tắc của hợp pháp và sự gắn kết. Wallerstein cho rằng: một hệ thống thế giới là một cấu trúc đa văn hóa, có sự phân công lao động trong đó sản xuất và trao đổi hàng hóa cơ bản và nguyên vật liệu là cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của cư dân sống trong nó. Điều này nghĩa là phân công lao động đề cập đến các lực lượng và quan hệ sản xuất của nền kinh tế thế giới một cách toàn bộ và nó dẫn đến sự tồn tại của hai khu vực phụ thuộc lẫn nhau, tạm gọi là lõi và ngoại vi.
Đây là những khu vực có vị trí địa lý và văn hóa khác nhau, một tập trung vào lao động, và một tập trung trên nhiều vốn sản xuất. Cấu trúc quan trọng nhất của hệ thống hiện nay trên thế giới là một hệ thống điện giữa lõi và ngoại vi. Trong đó mạnh mẽ và giàu có "cốt lõi" thống trị xã hội và khai thác các yếu kém và sự nghèo nàn của các xã hội bị ngoại vi.
Công nghệ là một yếu tố trung tâm trong vị trí của một khu vực trong lõi hoặc ngoại vi. Nâng cao hoặc phát triển quốc gia lõi, và các nước phát triển ít là ở ngoại vi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đối với Wallerstein (1987, p.309). hệ thống thế giới quan điểm không chỉ là một lý thuyết nó còn là “một cuộc biểu tình chống lại các cách thức mà xã hội yêu cầu thông tin khoa học được cấu trúc cho tất cả chúng ta ngay từ đầu của nó vào giữa thế kỷ XIX”. Wallerstein chỉ trích chế độ hiện hành của các điều tra khoa học “đóng cửa nhanh hơn là mở ra” những câu hỏi, rất nhiều nghiên cứu về các vấn đề quan trọng được đặt ra nhưng không có khả năng giải thích. Để trình bày hợp lý các lựa chọn thay thế lịch sử thực sự nằm trước chúng ta. Wallerstein đã đưa ra năm giả định các yêu cầu thông tin khoa học xã hội truyền thống.
Có 5 phương pháp nghiên cứu:
+ Trên nguyên tắc khoa học xã hội.
+ Dựa trên lịch sử và khoa học xã hội.
+ Trên đơn vị phân tích: Hệ thống xã hội so với lịch sử.
+ Trên danh nghĩa của chủ nghĩa tư bản.
+ Trên sự tiến bộ.
1. Trên nguyên tắc khoa học xã hội:
Trong cuộc điều tra khoa học truyền thống, “khoa học xã hội được thành lập về số lượng các “kỷ luật”, đó là trí tuệ nhóm thống nhất của vật chất-đối tượng riêng biệt” theo Wallerstein . Các ngành học bao gồm nhân loại học, kinh tế, khoa học chính trị, xã hội học, và có thể địa lý, tâm lý học, và lịch sử. Các ngành có tổ chức với ranh giới, cấu trúc, và nhân sự để bảo vệ lợi ích tập thể của họ trong các trường đại học cũng như trong thế giới tìm kiếm lại. Dựa trên tiền đề này, những người ủng hộ các nghiên cứu liên ngành hoặc giảng dạy một số khu vực cho rằng vấn đề có thể được hưởng lợi từ một phương pháp kết hợp các quan điểm của nhiều ngành.
Nhưng câu hỏi Wallerstein liệu các môn thể tách rời khỏi nhau trong những nơi đầu tiên. Các khoa học xã hội khác nhau, Wallertein nhận xét rằng “có xuất hiện trong quá trình của thế kỷ XIX là một tập hợp các tên, và sau đó các sở, bằng cấp và các hiệp hội, năm 1945 (mặc dù thời gian trước đó) đã kết tinh thành các loại chúng ta sử dụng ngày nay”. Tất cả các bộ phận khoa học xã hội thực sự bắt nguồn tri thức từ các hệ tư tưởng tự do thống trị của thế kỷ XIX, trong đó lập luận rằng nhà nước (chính trị) và thị trường (kinh tế) được phân tích lĩnh vực riêng biệt, xã hội học mà được cho là để giải thích các hiện tượng bất hợp lý mà kinh tế và chính trị khoa học đã không thể chiếm, và rằng nhân loại học chuyên ngành trong nghiên cứu của người nguyên thủy vượt ra ngoài lĩnh vực của thế giới văn minh.
Tuy nhiên, theo Wallerstein "như thế giới thực, phát triển, đường dây liên hệ giữa nguyên thủy, văn minh, chính trị và kinh tế, mờ. Học thuật săn trộm đã trở thành phổ biến. Những kẻ săn trộm tục di chuyển hàng rào, tuy nhiên không có vi phạm chúng xuống. “Từ quan điểm hệ thống thế giới, Wallerstein (1987) bác bỏ ranh giới nhân tạo này kỷ luật vì nó là một rào cản đối với kiến thức hơn nữa chứ không phải là kích cầu để tạo ra nó.
Ba đấu trường coi là hành động của con người tập thể kinh tế, chính trị và xã hội, văn hóa xã hội không phải là đấu trường tự trị của hành động xã hội. Họ không có riêng “chuỗi lý luận”. Quan trọng hơn, các hạn chế, tùy chọn, quyết định, chỉ tiêu, và “tính hợp lý” là như vậy mà không có mô hình nghiên cứu hữu ích có thể cô lập “các yếu tố” theo các hạng mục kinh tế, chính trị và xã hội, và điều trị chỉ có một loại biến, những người khác mặc nhiên giữ không đổi. Chúng tôi đang tranh cãi rằng có một “bộ quy tắc” hay một “tập các ràng buộc” trong đó các cấu trúc khác nhau hoạt động. Trong ngắn hạn, các môn khác nhau của khoa học xã hội thực sự mà là một duy nhất.
2. Trong lịch sử và khoa học xã hội:
Trong truyền thống tìm hiểu khoa học “lịch sử là việc nghiên cứu, các giải thích, cụ thể và nó thực sự xảy ra trong quá khứ, khoa học xã hội là việc công bố về việc thiết lập các quy tắc phổ thông của con người, trên hành vi con người đã được giải thích” (Wallerstein1987, tr.313). Đây là phương thức phát triển nổi tiếng sự khác biệt giữa hệ tư tưởng và học thuyết một thần, và đó là lời kêu gọi kết hợp hai phương thức trong thế giới của nền học vấn. Sử gia đã nói để phục vụ khoa học xã hội bằng cách sản xuất sau, cùng với sự thiết lập dữ liệu rộng hơn, sâu hơn từ đó suy ra các quy tắc tổng quát. Mặt khác, các nhà khoa học đã nói để phục vụ lịch sử bằng cách cung cấp hợp lí, đã chứng minh tổng quát rằng cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của một chuỗi các sự kiện.
Một lần nữa, Wallerstein hỏi “sự chia rẽ gọn gàng này” của người lao động trí tuệ với lịch sử tập trung vào phân tích cụ thể sự kết hợp trong khi phân tích khoa học xã hội kiểm tra sự tổng quát phổ thông. Giữa chuỗi và vũ trụ, giữa lịch sử và khoa học xã hội có ý nghĩa khác nhau phải không? Chúng là hai hoạt động hay là một? Wallerstein (1978, tr.314) giải thích rằng “Tất cả các mô tả đã có thời gian và… Chuỗi độc nhất chỉ miêu tả trong phạm trù không phải là duy nhất. Tất cả các khả năng ngôn ngữ thế giới so sánh giữa vũ trụ. Thực sự chúng ta không thể diễn tả một điểm, vì thế chúng ta không thể miêu tả một sự kiện duy nhất. Các bản vẽ mô tả có độ dày và phức tạp tổng quát”.
Để phản ứng lại sự chia rẽ giữa lịch sử và khoa học xã hội, hệ thống thế giới đã phát triển, cung cấp để tìm ra giá trị về các phương tiện truyền thông giữa các di tích lịch sử. Theo Wallerstein (1987, tr.315) các phương pháp của hệ thống thế giới thuộc viễn cảnh.
Để thực hiện phát triển trong hệ thống khung, thời gian đủ dài và không gian đủ lớn để chứa các logic chính phủ và xác định vùng lớn nhất về thực tế liên tục, trong khi đồng thời công nhận và tham gia vào các hệ thống khung có bắt đầu và kết thúc. Do đó, không được hiểu ánh sáng là vĩnh cửu. Điều ngụ ý này, sau đó có thể ở mọi góc nhìn cho cả hai khung (các nhịp điệu tuần hoàn của hệ thống), cái mà chúng tôi miêu tả muôn thuở, và cho các mô hình nội bộ chuyển đổi (các xu hướng phát triển đời thường của hệ thống) mà cuối sẽ mang tới sự chết chóc cho cả hệ thống mà chúng tôi miêu tả theo tuần tự. Điều này ngụ ý rằng nhiệm vụ là đơn lẻ không có sử gia và cũng không có nhà khoa học xã hội, nhưng chỉ là một di tích lịch sử. Nhà khoa học xã hội, người mà phân tích tổng hợp các văn bản pháp luật cụ thể của hệ thống và những sự nối tiếp đặc biệt mà hệ thống này đã đi qua.
3. Trên một đơn vị phân tích: Xã hội chống lại hệ thống lịch sử:
Trong truyền thống tìm hiểu khoa học xã hội, “loài người đã tổ chức trong sự tồn tại chúng tôi có thể gọi là xã hội, cái mà cấu thành các quy tắc xã hội cơ bản trong đó cuộc sống loài người là được sống” (Wallerstein 1987, tr.315).
Trong thế kỉ XIX, quan niệm về xã hội đã đối diện với nhà nước. Chìa khóa của trí tuệ được đưa ra, sau đó câu hỏi làm thế nào để điều khiển xã hội và nhà nước. Không như so sánh này, mặc dù nhà nước có thể quan sát và phân tích chính thực, trực tiếp thông qua các cơ sở giáo dục, xã hội được gọi tắt là phương thức. Và phong tục đại diện cho cái gì bền vững và sâu sắc hơn nhà nước.
Wallerstein trình bày rằng cũng ánh sáng thời gian trôi qua, chúng ta trở nên quen với suy nghĩ rằng các giới hạn của một xã hội và một nhà nước giống nhau và các nhà nước có chủ quyền cơ bản, cái mà cuộc sống xã hội được tiến hành. Trong truyền thống tìm hiểu khoa học xã hội, do đó nó đã thường xuyên được giả định rằng “chúng tôi sống dưới nhà nước”. Đó là một xã hội dưới nhà nước. Các nhà nước có lịch sử và truyền thống. Trên tất cả từ nhà nước là bình thường, nó là tình trạng bình thường nhà nước của phát triển chúng có nhiều ranh giới mà có yếu tố nội bộ và bên ngoài mà chúng có ở ngoài. Chúng độc lập như vậy đó, có các mục đích thống kê khác nhau, chúng có thể được so sánh (Wallerstein 1987, tr.316). Tuy nhiên, câu hỏi của Wallerstein điều trị này của xã hội nhà nước là một đơn vị phân tích. Ở đâu và khi nào các đơn vị đời sống trong xã hội này xảy ra mà còn tồn tại? Hệ thống thế giới tranh luận rằng các đơn vị cơ bản của sự phân tích nên được lịch sử hệ thống hơn là nhà nước xã hội. Theo Wallerstein, đây chỉ hơn một ngành ngữ nghĩa học thuật ngữ thay thế bởi vì hệ thống di tích lịch sử giải thoát chúng ta khỏi trung tâm rằng xã hội đã giành lại của nó liên kết với nhà nước và do đó các sự giả định trước về ở đâu và khi nào. Hệ thống lịch sử ánh sáng là một hệ thống nằm dưới một đơn vị lịch sử của khoa học xã hội. Tổ chức là hệ thống và các di tích lịch sử.
Wallerstein đã đưa tới một tập hợp các giả thuyết liên quan dẫn đến bản chất của hệ thống lịch sử này. Việc xây dựng ranh giới của một hệ thống di tích lịch sử là những cái ở trong hệ thống và con người ở trong nó thường xuyên được tái bản bằng phương tiện của một số loại tiếp tục phân chia lao động. Trong lịch sử loài người, Wallerstein tranh luận có ba hình thức của hệ thống di tích lịch sử: hệ thống nhỏ, hệ thống đế quốc và nền kinh tế thế giới.
Trong thời đại nguyên thủy đã có hệ thống nhỏ trong không gian và thời gian ngắn (cuộc đời của 6 thế hệ), các hệ thống nhỏ được đánh giá cao đồng nhất về văn hóa, cơ cấu chính phủ và họ phân ra khi họ trở nên quá lớn. Logic cơ bản là một của những trao đổi lẫn nhau.
Trong giai đoạn 800 năm trước CN tới 1500 sau CN, các đế quốc được chi phối dưới hình thức hệ thống lịch sử. Đế quốc trên thế giới được cấu trúc chính trị rộng lớn bao quanh một loạt các mô hình văn hóa logic cơ bản đã được khai thác của đồ cống từ các địa phương tự quản lý trực tiếp sản xuất thông qua để trở lên trung tâm và phân phối lại vào một mạng của các cán bộ.
Khoảng 1500 sau CN, các nhà tư bản nền kinh tế thế giới được sinh ra. Những nền kinh tế thế giới đã rộng lớn không đồng đều của chuỗi sản xuất thích hợp khảo sát tỉ mỉ cơ cấu của nhiều cơ cấu chính trị logic cơ bản đã được tích lũy bổ sung và được phân phối bất bình đẳng của những có khả năng đạt được độc quyền trên thị trường. Những lập luận nội bộ của những nhà tư bản thế giới sau sự mở ra vỏ bọc kinh tế toàn cầu đã làm cho những nền kinh tế đơn lẻ và những nền kinh tế đế quốc trên thế giới say sưa. Sau thời gian muộn màng, những năm đầu của thế kỉ XIX tồn tại một cực trên thế giới.
4. Trên định nghĩa của chủ nghĩa tư bản:
Nghiên cứu về khoa học xã hội truyền thống, “chủ nghĩa tư bản là một hệ thống dựa vào sự cạnh tranh tự do giữa những người sản xuất làm việc với nhưng mặt hàng tự do, “tự do” có nghĩa là tính săn sàng bán và mua hàng trên một thị trường” (Wallerstein1987, tr.318) định nghĩa này được thừa nhận bởi đa số những người tự do và những người theo chủ nghĩa Macxist đang làm chủ nước Anh sau cách mạng công nghiệp nổ ra và nó được coi như là một khuynh mẫu tư bản. Trong mô hình nước Anh CNTB cạnh tranh, những công nhân vô sản (nhưng công nhân thị thành không có đất, không có công cụ thực chất) nỗ lực trong các nhà máy của tư sản, những chủ nhân mua sức lao động và trả lương cho những công nhân tự do.
Tuy nhiên Walllerstein (1987, tr.319-320) lại tranh luận về điều đó “tình trạng những công nhân làm việc tự do những xí nghiệp và tiền lương giống như vị thánh trong thế giới hiện đại”. Phải chăng đây là sự thật, nếu suy diễn rằng khuôn mẫu tư bản để ở ngoài thì không phù hợp với thực tế của thế giới tư bản, tất cả những nhà nghiên cứu cũng phải ngạc nhiên về phổ biến của tất cả những khuôn mẫu tư bản. Trong những từ khác: Nếu chúng ta nhận thấy hệ thống có vẻ chứa những vực rộng của tiền lương và không có lương lao động.
Wallerstein tranh luận về: “Phải chăng các nhà nghiên cứu đã chấp nhận định nghĩa mới này của chủ nghĩa tư bản, cần phải đặt ra một câu hỏi mới, như sự tìm kiếm những điều bền vững của sự kết hợp đặc biệt cũng như kì thi của những sức mạnh nằm bên dưới mà ta có thể thấy đỏi được trong thời gian như vậy”. Những sự dị thường bây giờ không phải là những ngoại lệ. Nó sẽ được phân tích, như vậy nó đảo ngược với tâm lí học của chủ nghĩa truyền thống công thức khoa học.
5. Trên sự tiến bộ:
Trong xã hội truyền thống các nhà kinh tế chính trị đã khám phá và tìm hiểu “con người là tiến bộ lịch sử là điều chắc chắn” (Wallerstein 1987, tr.322) nó dường như có hai sự tiến hóa lớn. Các nhà lí luận và những người theo chủ nghĩa Marxist đã chia sẻ nhận định cơ bản của sự tiến bộ (Wallerstein 1987, tr.322). Tuy nhiên trên hệ thống phân tích muốn đổi mới ý tưởng tiến bộ từ các trạng thái thành một vệt dài các trạng thái. Và mở nó lên như là bước chuyển biến có thể có sự cải biến mạnh dạn trong hệ thống lịch sử (mà chúng tôi có những cuộc tranh luận đánh giá các tiêu chí) không phải cho rằng các xu hướng đều đi xuống hoặc đơn giản là không bằng phẳng và vô địch. Có thể cá sự nhận định này đã được đem ra tranh luận phân tích và ngay lập tức lịch sử hệ thống đã mở ra nhiều trường hợp về ngày tháng. Tất cả các hệ thống lịch sử đều có mở đầu và kết thúc mà trong thời gian đó đã xảy ra một quá trình liên tục (trong không gian và thời gian) đó là di tích lịch sử các quốc gia.
Cuối cùng Wallerstein kết luận rằng “Chúng ta đang sống trong lâu đài của thời đại chuyển đổi trái ngược với nền kinh tế tư bản đã làm cho nền kinh tế thế giới tiếp tục thay đổi các máy móc thiết bị”. Có như vậy ta gọi là cuộc sống trong công cuộc xây dựng xã hội. Khoa học cảm thấy thoải mái với những bất chắc của sự chuyển đổi, những thứ đó đã góp phần vào việc thay đổi xã hội. Soi sáng những lựa chọn mà không có khiếu nại đến tệ hại của niềm tin không thể tránh khỏi trong sự thắng lợi lớn.
Trang thiết bị với một phương pháp mới trên thế giới một loạt các trường học đã phát triển lên những con người mới mà từ đó giải quyết các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực khoa học. Sự tài giỏi sáng tạo của các khái niệm về lao động, cũng như làm thế nào trên thế giới cung cấp và giải thích được lịch sử của các nền kinh tế t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH7918NG NGHIN C7912U C7910A TR4317900NG PHI H7878 TH7888NG THamp.doc