Phương pháp dạy học Mỹ thuật 1

- Sinh viên nắm được thực trạng dạy – học mỹ thuật ở một số trường phổ thông hiện nay.

- Sinh viên hiểu quan niệm, mục tiêu, vai trò, vị trí, nội dung, phương tiện và đào tạo giáo viên trong dạy – học mỹ thuật

- Sinh viên tiếp cận với phương pháp dạy học mỹ thuật phổ thông: Khái niệm; nội dung cơ bản của các phương pháp, kĩ thuật dạy học; đồng thời nắm được đặc điểm các phân môn; cách sử dụng các phương pháp cho từng phân môn

- Sinh viên nắm được đặc điểm tâm lí và khả năng thể hiện ngôn ngữ tạo hình của học sinh phổ thông

- Sinh viên có ý thức học tập và vận dụng được vào quá trình học tập; nâng cao nhận thức về môn học.

 

doc56 trang | Chia sẻ: Kiên Trung | Ngày: 12/01/2024 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Phương pháp dạy học Mỹ thuật 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h Phác thảo bố cục: mảng chính, mảng phụ. Vẽ hình vào các mảng sao cho phù hợp nội dung. Vẽ màu: bằng cách nhớ lại hay vẽ theo cảm nhận riêng. 2.3.4. Phương pháp dạy - học phân môn Vẽ tranh 2.3.4.1. Với các bài lí thuyết Có minh họa đẹp, phong phú để làm rõ lí thuyết về bố cục, các hình thức bố cục và giới thiệu nhiều tranh đẹp của họa sĩ, của thiếu niên gây hứng thú học tập cho học sinh; Nên giới thiệu các chất liệu, cách sử dụng và vẻ đẹp của chúng qua các tác phẩm; Khắc sâu hơn cách khai thác đề tài, cách tìm hình tượng, cách vẽ màu qua các tác phẩm tiêu biểu của họa sĩ, của thiếu nhi. 2.3.4.2. Với các bài thực hành Nghiên cứu kỹ chương trình để có kế hoạch hướng dẫn, đánh giá có trọng tâm cho mỗi nội dung qua từng thời gian nhất định. Chuẩn bị ĐDDH: tranh, ảnh, hình gợi ý cách vẽ, các bài vẽ cùng nội dung của học sinh các lớp trước. Không hướng dẫn chung chung cho tất cả, cần có ý định với từng loại học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu kém. Hướng dẫn học sinh làm bài theo quy trình: Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung: Qua hình minh họa, giáo viên gợi ý giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài, tìm ra được các cách thể hiện (cách vẽ) khác nhau, tìm ra những ý hay, dí dỏm cho tranh của mình. Hướng dẫn học sinh cách vẽ: Giáo viên cần chỉ ra ở những tranh minh họa về: cách vẽ khác nhau ở một đề tài; cách sắp, xếp các mảng chính, phụ; xây dựng hình tượng theo mảng; cuối cùng là cách vẽ màu. Hướng dẫn học sinh làm bài: Giáo viên giúp các em tìm cách thể hiện, bố cục mảng, vẽ hình và tìm màu. Dùng phương pháp gợi mở trong khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh sẽ đạt hiệu quả hơn cả. 2.3.5. Những điều cần chú ý khi hướng dẫn vẽ tranh 2.3.5.1. Về phía giáo viên Một số giáo viên có ý thức sưu tầm và tham khảo tư liệu (tranh, sách báo, bài" vẽ của học sinh,...) tạo điều kiện cho bài dạy có kết quả, sinh động và hấp dẫn hơn. Tuy vậy, còn một bộ phận giáo viên chưa chú ý đến khai thác và mở rộng đề tài, hướng dẫn chung chung, thiếu tranh, hình vẽ minh họa. 2.3.5.2. Về phía học sinh Học sinh THCS thích vẽ tranh. Tranh vẽ của các em đã được đánh giá cao ở các triển lãm trong nước, có nhiều tranh được giải quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung, tranh vẽ của học sinh THCS còn ở tình trạng chung chung, chưa có ý hay về các đề tài; bố cục; đặc điểm vùng, miền chưa rõ nét. Chưa có kỹ năng sử dụng màu nước, màu bột. 2.4. Phương pháp dạy - học phân môn Thường thức mĩ thuật 2.4.1. Khái niệm Xem tranh: Trước đây xem tranh được dùng trong chương trình tiểu học và THCS. vì nội dung là giới thiệu tranh - các tác phẩm hội họa là chủ yếu. Giới thiệu mĩ thuật: Ngoài tác phẩm hội họa (tranh), còn giới thiệu về kiến trúc, điêu khắc, trang trí - các loại hình cơ bản của mĩ thuật. Ở THCS, Giới thiệu mĩ thuật chỉ giới thiệu có tính khái quát về một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu nhất của mĩ thuật Việt Nam và thế giới, song với phổ thông, thuật ngữ này có vẻ bài bản, chuyên nghiệp. Thường thức mĩ thuật: Thường thức mĩ thuật là tạo điều kiện cho học sinh thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm mỹ thuật, là rất cần thiết, là bình thường, và là phổ biến đối với mọi người. Giới thiệu các tác phẩm mĩ thuật để học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ đẹp của chúng. Các bài thường thức mĩ thuật ở THCS chỉ giới thiệu sơ lược các giai đoạn phát triển mĩ thuật, các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của mĩ thuật Việt Nam và thế giới. 4.2. Những nội dung cơ bản của thường thức mĩ thuật ở THCS 4.2.1. Sơ lược về mĩ thuật Việt Nam, gồm có: Mĩ thuật Việt Nam thời kì Cổ đại; Mĩ thuật Việt Nam các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn; Mĩ thuật Việt Nam các giai đoạn : trước năm 1945 ; từ 1 945 - 1 954 và từ 1 954 đến 1975 . 4.2.2. Sơ lược về mĩ thuật thế giới, gồm có: Mĩ thuật thời kì Cổ đại; Mĩ thuật thời kì Phục hưng; Mĩ thuật hiện đại và mĩ thuật một số nước vùng Châu Á 3. Một số phương pháp thường vận dụng trong dạy học Mỹ thuật 3.1 Phương pháp quan sát 3.1.1 Quan sát là gì ? Khi tiếp xúc với thế giới xung quanh, mắt giúp ta nhận thức đối tượng đầy đủ đủ hơn về kích thước to nhỏ, cao thấp; về vị trí trước sau, xa gần; về màu sắc, về đậm nhạt, Và như vậy nhận thức về đối tượng sẽ phong phú và sâu sắc hơn. Nhưng nhìn, ngắm, quan sát đều có mức độ, mục đích khác nhau. Với mĩ thuật, quan sát được dùng nhiều và trở thành thuật ngữ chuyên môn. Vậy quan sát là gì? Trước tiên ở mức độ nào đó, quan sát cũng là nhìn, là ngắm. Song quan sát thường có tính mục đích nhất định, rõ ràng được đặt ra từ trước, chứ không phải là nhìn thoáng qua, thấy bất chợt. 3.1.2. Mục đích của quan sát Quan sát để nắm được, hiểu được đối tượng về hình dáng chúng, về cấu trúc, về đậm nhạt và tỷ lệ của nó, để tìm ra vẻ đẹp của đối tượng. Cảm xúc trước vẻ đẹp của đối tượng là rất quan trọng, rất cần thiết, vì nó gây cảm hứng cho người vẽ - mong muốn vẽ đẹp. Quan sát giúp người vẽ có ý định bố cục - sắp xếp hình cho bài vẽ của mình, sao cho hình vẽ phù hợp, tỷ lệ với tờ giấy, làm cho bài vẽ có bố cục cân đối, đẹp hơn, tránh to hay nhỏ quá hoặc xô lệch mất cân đối. Quan sát diễn ra trong suốt quá trình vẽ: quan sát để ghi nhận hình ảnh của đối tượng - để nhớ về hình dáng, đường nét, mảng khối, đậm nhạt và màu sắc. Sau đó người vẽ thể hiện những gì đã quan sát, đã ghi nhớ được lên mặt phẳng của giấy, vải,... Lúc đó, người vẽ vẽ theo trí nhớ. Khi cảm thấy hình ảnh đối tượng mờ nhạt, người vẽ "nghi ngờ" về trí nhớ của mình, họ lại tiếp tục quan sát đối tượng để củng cố, bổ sung hoặc ghi nhận thêm những hình ảnh mới. Và sau đó lại tiếp tục vẽ. Lúc này (lúc vẽ), người vẽ chỉ nhìn vào bài vẽ chứ không nhìn đối tượng và vẽ là lúc tự kiểm tra trí nhớ của mình. 3.2 Phương pháp quan sát trong dạy học mỹ thuật. 3.2.1. Quan sát từ bao quát đến chi tiết Quan sát cần tiến hành từ bao quát đến chi tiết: từ cái chung, cái lớn, cái tổng quát, toàn thể trước, sau mới đến cái riêng, chi tiết, bộ phận. Và từ cái nhỏ, bộ phận đối chiếu, so sánh với cái chung, cái toàn thể. Cách quan sát này sẽ giúp người vẽ không sa vào chi tiết vụn vặt trước, mà tập trung vào hình mảng lớn, đậm nhạt chính của đối tượng. 3.2.2. Quan sát cần đối chiếu, so sánh. Khi quan sát cần đối chiếu, so sánh. Khi vẽ theo mẫu thường so sánh các bộ phận với nhau theo chiều ngang để thấy độ cao thấp (dùng que đo); theo chiều dọc để thấy độ rộng hẹp, đường thẳng, đường nghiêng, chỗ lỗi, chỗ lõm (dùng dây dọi). Khi so sánh cần dùng dụng cụ: que đo, dây dọi, song chúng chỉ là phương tiện trợ giúp, người vẽ vẫn ước lượng là chủ yếu, không quá lệ thuộc vào sự chính xác mà tính toán chi li để tìm tỷ lệ, kích thước. Khi vẽ ta thường so sánh giữa các bộ phận của đối tượng với nhau, giữa đồ vật này với đồ vật khác, đối chiếu giữa mẫu vẽ với bài vẽ về hình dáng, kích thước, về đậm nhạt; giữa mảng hình với khoảng trống, 3.3. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp quan sát trong dạy học mỹ thuật 3.3.1. Về phía giáo viên. Khi hướng dẫn học sinh quan sát không nên nặng về "kỹ thuật", yêu cầu đúng, chính xác - về chiều cao, chiều ngang, độ đậm nhạt, mà cần quan sát đến tính thẩm mĩ của đối tượng thể hiện ở bố cục, tỷ lệ các bộ phận và sáng tối, như vậy mới gây được hứng thú cho các em. Hướng dẫn học sinh quan sát cần nêu lên đặc điểm của mỗi bài; quan tâm đến so sánh, đối chiếu giữa đối tượng và bài vẽ để các em thấy những điều chưa đúng ở bài vẽ của mình. 3.3.2. Về phía học sinh Thấy được ý nghĩa của quan sát. Khi quan sát cần chú ý so sánh, đối chiếu, để có nhận xét đúng về hình dáng, tỷ lệ, đậm nhạt của đối tượng. Như vậy, bài vẽ mới rõ đặc điểm, không chung chung. 3.2. Phương pháp trực quan. 3.2.1. Trực quan là gì? Mĩ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của mĩ thuật thường là những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được - có hình có khối, có đậm nhạt, có màu sắc, ở xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc. Dạy - học nói chung, dạy - học mỹ thuật nói riêng thường dạy và học bằng trực quan và như vậy bao giờ cũng mang lại hiệu ủa. Riêng với mĩ thuật, tất cả các loại bài học đều phải sử dụng ĐDDH, bao gồm: những gì có thực, như các đồ vật, hoa, quả động vật, có cây, nhà cửa,..., tranh, ảnh, hình vẽ trên bảng, biểu bảng, bài vẽ của học sinh,... Dạy - học mĩ thuật thường dạy và học trên ĐDDH. Do vậy ĐDDH ở mĩ thuật là nội dung, là kiến thức của bài học. Đồ dùng dạy - học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học, trình độ của học sinh. Cho nên chuẩn bị tốt ĐDDH xem như giáo viên đã nắm được nội dung bài và phương pháp dạy - học. Và quá trình lên lớp chỉ là trình bày, diễn giải theo đồ dùng dạy - học đã chuẩn bị. 3.2.2. Phương pháp trực quan trong dạy học mỹ thuật Nói đến phương pháp trực quan tức là đề cập tới cách dạy sao cho học sinh thấy ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể và hiểu nhanh, nhớ lâu, đồng thời có hứng thú học tập. Dạy - học bằng trực quan sẽ làm cho những khái niệm trừu tượng, như cân đối, hài hòa hay những gì ẩn chứa trong bố cục, nét vẽ, màu sắc,... của đối tượng được thể hiện một cách rõ ràng. Như vậy, phương pháp trực quan yêu cầu giáo viên dạy mĩ thuật ở THCS cần lưu ý: 3.2.2.1. Nhận thức : Giáo viên dạy mĩ thuật nói chung, ở THCS nói riêng phải coi trực quan và phương pháp trực quan là cần thiết để chuyển tải nội dung bài dạy. Như vậy, giáo viên cần có ý thức thường xuyên chuẩn bị và sử dụng ĐDDH cho từng bài học cụ thể. 3.2.2.2. Chuẩn bị Giáo viên cần nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế ĐDDH hợp với nội dung, sát với tình hình thực tế của địa phương. Hình thức ĐDDH cần vừa phải (tránh to hay nhỏ quá về kích thước), đậm nhạt rõ ràng, dễ thấy, có trọng tâm và đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh. 3.2.2.3. Sử dụng trực quan Phân loại đồ dùng sao cho phù hợp với nội dung, thích hợp với yêu cầu từng thời kỳ, từng giai đoạn của học tập và ý định của giáo viên. Ví dụ: ĐDDH để giới thiệu khái niệm, để làm phong phú cho nội dung, để gợi ý suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo (về bố cục, về vẽ hình, về vẽ màu,...), để hướng dẫn học sinh cách vẽ, cách tìm màu, vẽ màu,... Trình bày ĐDDH cần rõ ràng, khoa học. Kết hợp giữa trình bày lý thuyết với giới thiệu trực quan đúng lúc, sao cho lời nói hấp dẫn và minh họa đẹp hòa quyện làm một, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu. Không lạm dụng, không sử dụng nhiều minh họa không rõ ý định hoặc giới thiệu đồ dùng dạy - học không đúng thời điểm, không ăn nhập với nội dung, với lời giảng. Cần hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét thiên nhiên và sưu tầm tư liệu học tập (tranh, ảnh,...) 3.2.3. Một số lưu ý khi sử dụng Phương pháp trực quan trong dạy học mỹ thuật 3.2.3.1. Về phía giáo viên Đồ dùng dạy - học môn mỹ thuật chưa được chú ý nghiên cứu và sản xuất, do đó, có thể nói rất nghèo nàn, thiếu thốn và chưa đủ quy chuẩn. Do vậy, giáo viên dạy mỹ thuật ở THCS cần cố gắng sưu tầm và tự tạo lấy ĐDDH phục vụ cho bài dạy. Giáo viên có thể chuẩn bị, sưu tầm bộ đồ dùng dạy mỹ thuật đầy đủ, phong phú. Ví dụ ở: tuyển tập tranh của Việt Nam và thế giới; các hình khối, lọ hoa,... (sưu tầm và tự tạo); biểu bảng minh họa, gợi ý cách tiến hành bài vẽ (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh,... ở bộ ĐDDH của các lớp THCS và Tiểu học đã xuất bản); các bài vẽ của giáo viên và học sinh (theo chương trình) ở những dạng, ở mức độ khác nhau để gợi ý suy nghĩ, sáng tạo, gồm các bài: đẹp, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu,... để học sinh phân tích, so sánh, tham khảo. Giáo viên cần chú ý việc trình bày ĐDDH trong bài dạy, kết hợp với minh họa trên bảng cùng với lời nói sinh động có hình ảnh giúp cho học sinh nhận thức bài sâu sắc hơn. Ngược lại, nếu chuẩn bị đồ dùng dạy - học sơ sài, thiếu chất lượng, trình bày thiếu khoa học, thiếu tính thẩm mĩ, ít minh họa trên bảng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bài dạy, vì không lôi cuốn được học sinh. 3.2.3.2 Về phía học sinh Học sinh THCS chưa có ý thức đúng đắn về quan sát, nhận xét đối tương, do đó các em tìm hiểu vè vẻ đẹp của đối tượng chưa đầy đủ. Đồ dùng dạy - học đẹp, hấp dẫn có tác dụng đối với suy nghĩ, sáng tạo của học sinh, tạo cho bài vẽ sinh đông, đa dạng hơn. Một số học sinh còn coi ĐDDH là khuôn mẫu, thường rập khuôn, sao chép lại mẫu. Học sinh THCS chưa chú ý sưu tầm tư liệu phục vụ cho học sinh, chưa có thói quen quan sát nhận xét thiên nhiên, danh lam thắng cảnh,... Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức thẩm mỹ của các em. 3.3. Phương pháp vấn đáp 3.3.1. Vấn đáp là gì? Theo cách hiểu thông thường thì vấn là hỏi, đáp là trả lời - hỏi và trả lời. Khi dạy học, giáo viên thường nêu lên các câu hỏi cho học sinh suy nghĩ và trả lời về nội dung bài học. Các câu hỏi đều được giáo viên chuẩn bị trước. Có câu hỏi đơn lẻ - về một nội dung cụ thể nào đó. Ví dụ: - Thế nào là đường điểm? - Cách vẽ họa tiết trang trí? - Vì sao phải vẽ từ bao quát đến chi tiết?,... Có thể có một hệ thống câu hỏi, theo một logíc của nội dung bài dạy. Qua trả lời của học sinh, giáo viên đã phần nào thấy được khả năng của các em và kết quả bài dạy, từ đó giáo viên củng cố, bổ sung cho nội dung đầy đủ, hoàn chỉnh hơn. Cách dạy này giúp học sinh suy nghĩ trước những nội dung của bài học. Có thể, các em suy nghĩ, trả lời sai hay chưa đủ, những câu hỏi vẫn có lợi, có tác dụng, vì nó "buộc" mọi học sinh phải suy nghĩ, phải tập trung hướng tới nội dung bài học, như vậy học sinh sẽ chủ động lĩnh hội kiến thức hơn. Một số học sinh suy nghĩ sai, trả lời chưa đúng sẽ "thấy" được mình. Ngược lại, những học sinh trả lời đúng sẽ tự tin, phấn khởi học tập hơn. Khi câu hỏi được đặt ra, tất cả học sinh phải suy nghĩ, phải tìm kiếm, lựa chọn cách trả lời - lựa chọn nội dung, điều đó rất có lợi, bởi nó gây thói quen suy nghĩ trước về một vấn đề nào đó rồi mới trả lời, đồng thời xây dựng cho học sinh ý tức tự giác học tập. 3.3.2 Phương pháp vấn đáp trong dạy học mỹ thuật Để vấn đáp có hiệu quả, giáo viên cần lưu ý: Nắm vững nội dung từng loại bài dạy: lý thuyết và thực hành để có các loại câu hỏi khai thác - câu hỏi đơn lẻ về một ý, một vấn đề nào đó, hay các câu hỏi có tính hệ thống. Câu hỏi cần rõ, sát nội dung, gợi cho học sinh suy nghĩ để tìm ra câu trả lời theo cách hiểu của mình, tránh rập khuôn, máy móc. Trước khi đặt câu hỏi, giáo viên nên thông báo cho học sinh để hướng tất cả đến bài học, chuẩn bị trước - đón chờ câu hỏi. Ví dụ: tất cả các em hãy lắng nghe và cho biết: thế nào là bức tranh đẹp? hay: Muốn vẽ đậm nhạt, ta phải làm gì? Câu hỏi có thể đưa ra trước khi giảng hoặc sau khi đã minh họa. Đối với môn Mĩ thuật ở THCS thường có các loại câu hỏi sau: - Câu hỏi cho các khái niệm: Thế nào là đơn giản, cách điệu? - Câu hỏi cho cách giải quyết bài tập: Cách vẽ theo mẫu như thế nào? - Câu hỏi gợi ý suy nghĩ, sáng tạo: Làm thế nào để có màu đẹp?; Liệu còn cách vẽ nào khác, đẹp hơn?,.Có câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời, cũng có câu hỏi chỉ để tác động, đòi hỏi học sinh suy nghĩ, tiếp cận kiến thức, hướng tới nội dung bài. Câu hỏi cần kết hợp hài hòa với lời giảng. Tùy theo loại bài, nội dung bài dạy mà giáo viên đặt những câu hỏi thích hợp, đan xen sao cho "nhịp điệu" học tập của học sinh thay đổi, không khí học tập đỡ đơn điệu, tẻ nhạt, kết hợp giữa: Nghe - Nghĩ - So sánh - Phân tích - Nhận xét - Tổng hợp, để học sinh không chỉ nghe một cách thụ động. Nhận xét câu trả lời của học sinh cần rõ ràng, mạch lạc, sát nội dung. Song không nhất thiết sau mỗi câu hỏi đều yêu câu trả lời hoặc câu trả lời nào của học sinh, giáo viên cũng phải nhận xét, cũng cố. Giáo viên cần lựa chọn nhận xét hay củng cố các câu trả lời có trọng tâm. 3.3.3. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp vấn đáp trong dạy học mỹ thuật 3.3.3.1. Về phía giáo viên Để vận dụng phương pháp vấn đáp trong giờ dạy mỹ thuật có hiệu quả, giáo viên cần: Đặt câu hỏi thường xuyên trong tất cả các bài dạy, tạo thành thói quen suy nghĩ cho học sinh. Không nên chỉ thuyết trình, ngược lại hạn chế đặt quá nhiều câu hỏi, làm cho kiến thức bị ngắt quãng, không thành mạch, ảnh hưởng tới sự tiếp thu của học sinh. Câu hỏi cần chuẩn bị trước và ghi ở thiết kế bài dạy, không nên vì tình thế bất chợt trong lúc dạy mà có. Điều đó chứng tỏ giáo viên chưa thấy được vai trò, ý nghĩa các câu hỏi, tác dụng của nó đối với việc khai thác nội dung bài và tính chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh; Hạn chế nhận xét, tóm tắt hay bổ sung tất cả các câu trả lời của học sinh, hoặc nhận xét bổ sung quá dài. Chỉ cần nêu lên tinh thân cơ bản của nội dung để đỡ mất nhiều thời gian của giờ dạy. Nên có câu hỏi trọng tâm, bao quát của giờ dạy, và cũng chỉ bổ sung hay nhắc lại các câu trả lời ở những phần trọng tâm. 3.3.3.2.Về phía học sinh Với giờ học mỹ thuật, học sinh THCS thường có những biểu hiện sau:- Học sinh thường ít phát biểu;- Một số trả lời câu hỏi rất bài bản, công thức, chưa có ý kiến riêng của mình. Do vậy, cần đặt câu hỏi tác động đến suy nghĩ của học sinh. 3.4. Phương pháp luyện tập 3.4.1. Luyện tập là gì ? Môn học nào cũng cần phải luyện tập để củng cố kiến thức. Với môn Mỹ thuật, luyện tập được coi là hoạt động học tập chủ yếu, thường xuyên để củng cố kiến thức đã tiếp thu, đồng thời trong quá trình luyện tập, học sinh còn tìm ra nhiều điều mới mẻ làm cho nhận thức trở nên phong phú, kiến thức càng sâu sắc hơn và "mầm mống" của sáng tạo sẽ được hình thành. Môn Mĩ thuật có nhiều dạng luyện tập: luyện tập quan sát, nhận xét, đánh giá sự vật, hiện tượng xung quanh; luyện tập củng cố kỹ năng vẽ: bố cục, vẽ hình, vẽ màu; luyện tập về phương pháp vẽ - cách tiến hành bài vẽ; luyện tập nâng cao khả năng tìm tòi, sáng tạo, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ, Mỗi dạng luyện tập được thể hiện trong những bài tập cụ thể, có yêu cầu, mức độ cho từng thời kỳ trong quá trình học tập và ở trình độ nhất định của học sinh. 3.4.2 Phương pháp luyện tập trong dạy học mỹ thuật Để vận dụng phương pháp này có hiệu quả, giáo viên cần chú ý: Nắm vững chương trình mĩ thuật, cụ thể là: mục tiêu, nội dung, yêu cầu cần đạt, phương pháp và trang thiết bị cần thiết, đồng thời hiểu đặc điểm đối tượng học sinh để có kế hoạch, có nội dung và phương pháp luyện tập phù hợp. Luyện tập cần có trọng tâm cho từng thời kỳ nhất định, không tràn an, không trùng lặp. Ví dụ: 3.4.2.1. Với các bài lý thuyết Ở THCS, các bài học lý thuyết được tăng lên rõ rệt. Ví dụ: Thường thức mĩ thuật (sơ lược về lịch sử mĩ thuật Việt Nam, thế giới); Luật xa gần, màu sắc, phương pháp vẽ theo mẫu, vẽ trang trí,. Đối với loại bài này, luyện tập bằng cách ra các bài tập nhỏ, yêu cầu học sinh đọc, sưu tầm tư liệu, quan sát, nhận xét và ghi chép (ghi chép bằng văn bả, bằng hình vẽ, bản rập . Hình thức luyện tập này cần tiến hành thường xuyên sau mỗi bài, mỗi chương và két hợp với tham quan, dã ngoại. Cố gắng khai thác những gì có ngay ở địa phương, như: tư liệu ở các danh lam, bảo tàng, di tích lịch sử, văn hóa, Đồng thời tổ chức các buổi nói chuyện về mĩ thuật, tọa đàm trao đổi về các sản phẩm mĩ thuật trong phạm vi ở trường. Trưng bày tranh, của họa sĩ, các bài tập của học sinh vào ngày lễ hội và có nhận xét, đánh giá cũng là cách luyện tập bổ ích và thú vị. 3.4.2.2. Với các bài thực hành Các dạng bài luyện tập: tùy theo yêu cầu đặt ra cho từng thời kỳ mà có các bài tập khác nhau. Ví dụ: bài luyện tập về bố cục, về cách tìm và vẽ họa tiết, cách vẽ màu, vẽ hình hay vẽ đậm nhạt, như vậy việc hướng dẫn và đánh giá chung chung. Ví dụ: nếu thời gian này yêu cầu luyện tập về bố cục thì đánh giá bài vẽ hãy ưu tiên, tập trung vào bố cục trước. Tuy nhiên có quan tâm tới hình tượng và màu sắc. Thời gian luyện tập đối với từng loại kiến thức phải rõ ràng và cần thông báo trước để học sinh có ý thức hướng tới trọng tâm bài học. Sau một thời gian luyện tập kỹ năng thể hiện các loại kiến thức và đã đạt yêu cầu đề ra, thì các bài luyện tập sau mang tính tổng hợp một cách rõ rệt. Phương pháp tiến hành: Ra bài tập và nêu yêu cầu cần đạt để học sinh nắm được trước khi làm bài. Học sinh suy nghĩ, tự giải quyết bài tập theo yêu cầu. Học sinh trình bày (đối với các bài lý thuyết), giáo viên góp ý, nhận xét. Giáo viên nhận xét, góp ý trên cơ sở yêu cầu đề ra và thực tế bài vẽ, đồng thời có thể bổ sung thêm kiến thức nhưng phải dựa vào khả năng (thực lực) - mức độ tiếp thu, thể hiện của mỗi loại học sinh: kém, trung bình, khá, giỏi. Trong khi hướng dẫn, giáo viên cần dùng các câu hỏi gợi mở để học sinh tự quan sát, so snh hay suy nghĩ tìm ra cách giải quyết vừa với khả năng, phù hợp với bài vẽ của mình. Đây cũng là một đặc điểm của phương pháp dạy - học mĩ thuật: cung cấp kiến thức chung cho tất cả, nhưng hướng dẫn lại rất cụ thể với từng bài của học sinh. Đối với môn mĩ thuật thì dạy trên bài vẽ cụ thể của mỗi học sinh và học khi đang vẽ bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Vì những kiến thức chung chung, trừu tượng giờ đây đã được thể hiện một cách cụ thể trên bài vẽ (đâu là cân đối, hài hòa,?) và những ưu điểm hay thiếu sót, bài vẽ đẹp hay chưa đẹp do chính học sinh tạo ra được thể hiện một cách rõ ràng nhất. Nếu được chỉ dẫn, gợi ý, học sinh sẽ nhận ra ngay và lĩnh hội được kiến thức ở trên bài vẽ của mình một cách trực quan và tự giác. Trong khi làm việc với học sinh, giáo viên dựa trên những cái có thực mà bổ sung, cung cấp thêm tri thức hoặc gợi ý phát triển tiếp, góp phần nâng bài vẽ của học sinh lên mức độ cao hơn. 3.4.3. Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp luyện tập trong dạy học mỹ thuật Giáo viên dạy mĩ thuật ở phổ thông cần chú ý đến hiệu quả của phương pháp luyện tập, thể hiện ở: - Tìm ra trọng tâm luyện tập cho các dạng bài; - Phương pháp hướng dẫn cần cụ thể cho từng loại học sinh, không quá nặng về yêu cầu mà cần động viên, khích lệ hay gợi mở, tạo cho giờ học vui, sinh động, học sinh học tập tự giác hơn. Tạo cho học sinh có thói quen nghiên cứu kỹ yêu cầu bài tập để bài vẽ không chung chung, có sáng tạo cả về bố cục và xây dựng hình tượng. Yêu cầu học sinh suy nghĩ về gợi ý, chỉ dẫn của giáo viên, tìm cách thể hiện cho bài vẽ của mình phong phú đa dạng hơn. 3.5. Phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc sống 3.5.1 Liên hệ với thực tiễn cuộc sống Thực tiễn cuộc sống phong phú và đa dạng. Mọi lý luận đều xuất phát từ thự tiễn sinh động. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống sẽ làm cho sự hiểu biết của học sinh sâu sắc thêm, giờ động. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống sẽ làm cho sự hiểu biết của học sinh sâu sắc thêm, giờ học trở lên hấp dẫn hơn. Học đi đôi với hành. Lý luận gắn liền với thực tiễn là nguyên lý, phương châm giáo dục, đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm vững và vận dụng vào giảng dạy của mình. Thực tiễn cuộc sống rất rộng, bao gồm tất cả những gì có ở xung quanh. Với môn Mỹ thuật là cỏ cây hoa trái, các con vật, con người và mọi mối quan hệ của chúng. Hơn nữa, nghệ thuật nói chung, mỹ thuật nói riêng luôn lấy chất liệu từ cuộc sống - phản ánh cuộc sống bằng ngôn ngữ của mình. Thực tiễn cuộc sống còn được hiểu rộng hơn cả về sinh hoạt, học tập của con người... (phong tục, tập quán), những gì gắn bó với cuộc sống. Vì thế, học sinh cần phải hiểu thực tiễn cuộc sống xung quanh để làm cho bài vẽ của mình thực hơn, sinh động hơn, để hiểu hơn mối liên quan giữa nghệ thuật và cuộc sống. 3.5.2 Phương pháp liên hệ thực tiễn cuộc sống trong dạy học mỹ thuật Mĩ thuật là một trong những môn tổng hợp bao gồm kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, như toán, lý, toán, sinh vật, văn, sử, địa, tâm lý, âm nhạc,... Sự liên quan, hỗ trợ, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau phát triển của một số ngành khoa học, một số môn học đã được chứng minh và áp dụng vào cuộc sống. Do vậy, giáo viên dạy mĩ thuật ở THCS cần phải có ý thức tìm hiểu thực tiễn cuộc sống để phục vụ cho dạy - học mỹ thuật, nhằm nâng cao chất lượng bài dạy, bài vẽ, đồng thời cho sự hiểu biết của học sinh phong phú hơn. Giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài dạy để tìm ra mối liên hệ của các môn học và thực tiễn sôi động bên ngoài với môn Mĩ thuật. Đồng thời chắt lọc được lượng thông tin sát, vừa đủ để so sánh, đối chiếu, chứng minh làm cho kiến thức của mĩ thuật trở nên rõ ràng, cụ thể, sôi động, tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu dễ dàng, nhẹ nhàng hơn. Khi dạy về màu sắc, ta thường nói: "Màu sắc rất phong phú", tốt nhất hãy đưa học sinh hòa nhập với thiên nhiên hoặc giới thiệu các hình ảnh đẹp, có thực để cả thấy được sự phong phú về màu sắc của cỏ cây hoa trái, của đất, nước, mây trời,... Tất cả đều nói lên màu sắc xung quanh vô cùng đa dạng, tự học sinh sẽ nhận ra và hiểu đó là màu của thiên nhiên, chúng sẵn có như vậy, đẹp và biến đổi rất kỳ lạ theo thời gian, thời tiết, Sau khi học sinh đã quan sát và cảm nhận vẻ đẹp đa dạng của ở thiên nhiên, giáo viên giới thiệu màu sắc ở tranh, vải, quần áo, đồ dùng hằng ngày, các bài vẽ tranh, vẽ trang trí... và đặt các câu hỏi để các em thấy và phân biệt màu sắc của thiên nhiên và màu sắc do con người tự tạo ra, qua đó các em sẽ thấy vẽ đẹp, sự phong phú của chúng. Đồng thời làm cho học sinh tin tưởng vào khả năng của con người, của mình và sẽ phấn khởi học tập hơn, mong muốn tạo ra những bài vẽ có màu đẹp theo ý thích. Khi dạy về các cách sắp xếp trong trang trí, giáo viên nên giới thiệu các hình ảnh về sự cân đối, về đối xứng ở con người, con vật, ở lá, hoa,... Học sinh quan sát và nhận ra được các quy luật của trang trí nói riêng, của mĩ thuật nói chung cũng rút đúc từ thiên nhiên, và c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphuong_phap_day_hoc_my_thuat_1.doc
Tài liệu liên quan