Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta.
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý.
14 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ để xây dựng nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
II, Vận dụng tư tưởng HCM vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới
1, Việc thực hiện quy chế dân chủ của Nhà nước ta hiện nay
1.1, Sự cần thiết và ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta.
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý.
1.2, Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong thời gian qua
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở. Quy chế dân chủ ở cơ sở ra đời đánh dấu một bước tiến bộ xã hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý các công việc ở địa phương, kiểm soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Quy chế thực hiện dân chủ ở phường (xã) ra đời là một biểu hiện sinh động nhằm cụ thể hoá phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng. Qua thời gian triển khai và thực hiện đã thực sự phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương góp phần tác động tích cực tới công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở phường, xã, thị trấn, các khu dân cư, tổ dân phố… Tạo ra sự chuyển biến tích cực về ý thức và phong cách làm việc của cán bộ Đảng, Chính quyền, đoàn thể theo hướng gần dân, tôn trọng dân và có trách nhiệm với dân hơn.
Có thể nhận thấy qua những năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội đã được tạo ra, quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, lòng tin của nhân dân vào chế độ ngày càng được củng cố, từ đó thúc đẩy sự phát triển Kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, biểu hiện rõ nhất là trong phát triển kinh tế, xây dựng nếp sống văn hoá ở xã, phường, thị trấn.
Tuy nhiên, cùng với các mặt tích cực đạt được nêu trên, qua quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn nữa kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn để tiếp tục triển khai một cách phù hợp, đồng bộ và hiệu quả hơn. Vẫn còn không ít cơ sở lúng túng hoặc thực hiện một cách hình thức trong việc gắn kết giữa việc xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở .
Sau 10 năm triển khai thực hiện, chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế chưa đạt được kết quả như mong muốn. Có nơi, có lúc còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; không ít nơi chưa thực hiện tốt công khai, dân chủ, chưa phát huy đầy đủ tinh thần, trách nhiệm làm chủ của nhân dân trong tháo gỡ khó khăn, tham gia giải quyết những bức xúc từ cơ sở. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ, công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, nhất là các chế độ, chính sách về nhà, đất, tài chính, tài sản, tiền lương, tiền thưởng; về quy hoạch, kế hoạch, giá cả đền bù khi thu hồi đất v.v.. có nơi chưa thực hiện nghiêm túc theo quy trình, quy định của Nhà nước, để xảy ra tham nhũng, vi phạm pháp luật làm nhân dân bất bình. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở chưa đồng đều; trách nhiệm của một số ban chỉ đạo, của Mặt trận, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có nơi, có lúc chưa được đề cao. Đến nay, vẫn còn nhiều nơi chưa xây dựng được quy chế, nhiều công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa triển khai thực hiện; chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ ở nhiều cơ sở chưa cao.Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết và nhận diện các điển hình có nơi thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ; thiếu kiên quyết trong việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ. Tình trạng mất đoàn kết, nhũng nhiễu, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tình hình khiếu kiện vẫn còn diễn ra phức tạp ở một số địa phương.
Những yếu kém, khuyết điểm về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về dân chủ chưa đầy đủ, trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền chưa tập trung chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc; chưa cụ thể hóa các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở; chưa coi trọng việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước sát với thực tiễn của từng loại hình cơ sở; chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; việc sơ kết, tổng kết, nhân rộng các điển hình chưa được coi trọng; chưa kiểm điểm, phê bình nơi làm yếu và thiếu quan tâm giúp đỡ nơi có khó khăn.
1.3, Những bài học kinh nghiệm bước đầu trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
Một là, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, không ngừng nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở. Các ngành, các cấp tổ chức thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến nhân dân về xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích trực tiếp của nhân dân; tích cực thực hành dân chủ, tạo nền nếp và những chuyển biến mới, tích cực ở cơ sở.
Thực tế cho thấy, những nơi cấp ủy, chính quyền nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn; coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các loại hình văn hóa, nghệ thuật để góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, thúc đẩy quá trình xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ ở cơ sở, quy ước, hương ước ở thôn. Phát huy dân chủ, nhân dân tích cực tham gia quá trình phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở; bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội có nhiều chuyển biến rõ nét.
Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu của các tổ chức trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở. Quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ gắn với việc thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, các loại phí, lệ phí và các quy định của pháp luật. Nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp; nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đối thoại tháo gỡ khó khăn từ cơ sở, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Phát huy dân chủ, khâu quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc chính là xây dựng và ban hành được các quy chế, quy ước thực hiện dân chủ ở cơ sở. Phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc trực tiếp chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ; góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức và cán bộ, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ; công khai các hoạt động quản lý, điều hành; nâng cao tinh thần, trách nhiệm thực hành dân chủ của đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở cơ sở.
Ba là, tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị về chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá kết quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ ở cơ sở gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở cơ sở. Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, xem xét, đánh giá kết quả thực hiện; khen thưởng và động viên kịp thời; tạo phong trào sâu rộng, có hiệu quả ở từng loại hình cơ sở.
Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức ở cơ sở mở ra các cơ chế vận hành đồng bộ, thống nhất trong triển khai, thực hiện của từng tổ chức, trong quản lý, điều hành của chính quyền; mở ra môi trường thuận lợi cho nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ đã tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, công chức, người lao động phát huy năng lực, trí tuệ, nâng cao trách nhiệm tham gia về hoạch định cơ chế, chính sách, tham gia giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh v.v.. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp (có tổ chức công đoàn) đã tổ chức ký kết thỏa ước lao động tập thể. Nhiều doanh nghiệp đã ban hành bộ quy chế về tiêu chuẩn, quy trình, quy định, quy ước, nội quy của doanh nghiệp, thiết lập quan hệ lao động hài hòa hơn giữa người lao động với chủ doanh nghiệp; ý thức lao động của công nhân, người lao động tiếp tục được nâng lên.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc thực hiện Quy chế Dân chủ gắn với xây dựng và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội như: tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống của làng, xã, lễ hội văn hóa vùng, miền, khu vực; lễ hội tôn vinh người có công, người vượt khó học giỏi; huy động sức dân xây dựng nhà văn hóa, các công trình văn hóa... Nhân dân tích cực thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "Xóa đói, giảm nghèo" và thực hiện tốt các chính sách xã hội, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn ổn định và từng bước cải thiện cuộc sống. Hằng năm, nhiều địa phương đã công nhận trên 75% số gia đình đạt chuẩn văn hóa, 65% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở các ngành, các cấp; nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên đề cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên trong ban chỉ đạo, tiếp tục phân công theo dõi và trực tiếp giúp đỡ cơ sở, phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến, thí điểm việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở các loại hình cơ sở chưa thực hiện; kịp thời thay thế, bổ sung, kiện toàn ban chỉ đạo; sửa đổi, bổ sung quy chế, kinh phí hoạt động. Phối hợp với các cơ quan chính quyền, tập trung chỉ đạo, nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, xây dựng xã hội đồng thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, tạo sự đồng đều về kết quả xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Năm là, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương pháp luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; kiên quyết xử lý đối với những trường hợp lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo chống phá Nhà nước ta, gây mất ổn định về an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, phẩm chất và năng lực của cán bộ, công chức để thực hiện các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát hiện, tố giác các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; tham gia giám sát các vụ, việc vi phạm pháp luật và kết quả xử lý, giải quyết sau thanh tra. Phát huy sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng dân cư, nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực tham gia ngăn chặn các tệ nạn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; vạch trần các thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để chống đối; ngăn chặn các hành động gây rối, gây bạo loạn, gây mất ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở.
Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Kiên trì chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, đề cao trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức ở cơ sở. Gắn xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, đơn vị; giám sát trách nhiệm, ý thức chấp hành và gương mẫu thực hiện của cán bộ, đảng viên, công chức; sơ kết, tổng kết và nhận diện kịp thời các điển hình thực hiện tốt Quy chế.
Những cấp ủy làm tốt việc phân công cán bộ có năng lực, trực tiếp tham gia ban chỉ đạo, định kỳ nghe ban chỉ đạo báo cáo; đồng thời, đề ra những giải pháp, tăng cường sự chỉ đạo đối với các ngành, các cấp; tổ chức cho cán bộ, công chức đi cơ sở, gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Các cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt ở cấp xã do Hội đồng nhân dân bầu, góp phần ngăn chặn tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, cửa quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở cơ sở. Đồng thời, không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên và công chức, góp phần làm trong sạch nội bộ tổ chức đảng, nâng cao tinh thần đoàn kết, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các ngành, các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, kiên quyết chỉ đạo và tổ chức thực hiện sâu rộng, đồng đều; tiếp tục tổng kết, đúc rút các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào đặc điểm của từng loại hình cơ sở một cách nền nếp, hiệu quả, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị ở từng địa bàn, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của quê hương, đất nước.
2, Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân
2.1, Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ để xây dựng nhà nước
Muốn thực hiện đúng phương châm chỉ đạo của Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 30-CT/TW, để cho dân chủ trở thành nề nếp trong đời sống hàng ngày của xã hội phải quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng, có sự thống nhất giữa chủ trương và chỉ đạo thực hiện. Đồng bộ cả ở cơ sở và cấp trên cơ sở trong cả hệ thống chính trị. Đồng thời phải coi việc thực hiện Quy chế dân chủ là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của các tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân; Phải gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Vì vậy phương hướng chung để thực hiện Quy chế dân chủ trong thời gian tới đã được Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ Trung ương nêu trong Báo cáo tổng kết sáu năm thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ chính trị (khoáVIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là:
Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị số 30-CT/TW, nhận thức đúng về phát huy dân chủ của nhân dân, đề cao trách nhiệm lãnh đạo của Cấp uỷ đảng và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp nhân dân, nghiêm túc thực hiện và mở rộng việc lấy ý kiến nhân dân tích cực thực hành dân chủ, quyết tâm đưa Quy chế dân chủ đi vào thực tiễn, tạo nên chuyển biến thực sự và trở thành phong trào của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Gắn thực hiện Quy chế dân chủ với thực hiện các nhiệm vụ chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Từng bước mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, tạo bầu không khí phấn khởi, tin tưởng, đoàn kết, đồng thuận trong cán bộ và nhân dân, tạo thế và động lực mới cho sự nghiệp phát triển bền vững và xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên gương mẫu, sát dân, tổ chức để nhân dân bàn bạc, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội.
Tạo sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Chính quyền với đề cao vai trò vận động, thuyết phục nhân dân và giám sát thực hiện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Coi trọng việc thể chế hoá, xây dựng các quy chế, quy định phù hợp với từng loại hình cơ sở để nang cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, sai phạm đã phát hiện, đồng thời xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối làm mất ổn định an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước ở cơ sở.
Quan tâm củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ đủ mạnh, nâng cao vai trò tham mưu, giúp Cấp uỷ chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc thực hiện Quy chế dân chủ ở tất cả các loại hình cơ sở, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác của Ban chỉ đạo. Tích cực phối hợp với các ban, ngành, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, rành mạch cho từng đồng chí cán bộ, thành viên Ban chỉ đạo có như vậy việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở mới thực sự có hiệu quả và đi vào nề nếp.
2.2. Một số giải pháp để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Để làm được những điều đó cần phải giải quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
2.2.1. Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá – xã hội là không thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển kinh tế, lợi ích về văn hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho thấy nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc lợi công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp thì chẳng những ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà còn kìm hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân dân là người sáng tọ ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong xã hộI XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới Nhà nước hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo quyền con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có cuộc sống ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi con người (quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng cũng như các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trước đất nước và xã hội.
Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn – gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm tư, nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp rộng rãi mọi lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ của toàn dân để cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.” (1) Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
2.2.2. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (2). Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống những hành vi tự do, vô chính phủ.
Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là xây dựng chế độ trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là người đại diện quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực Nhà nước. Ở đây, Nhà nước xác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_nop_tthcm_detai3_326.doc