Phòng và điều trị bệnh viêm vú trên bò sữa

Viêm vú là bệnh hay gặp trên trên nhiều loài gia súc nhất

là bò sữa, gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi. Đặc thù của

bệnh là tuyến vú bị viêm, sữa bị biến đổi về lý tính và hoá

tính, làm giảm sản lượng và phẩmchất sữa. Thùy vú bị tổn

thương, nếu viêm nặng bầu vú teo và mất khả năng tiết sữa,

thú bị loại thải.

pdf7 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 2download
Nội dung tài liệu Phòng và điều trị bệnh viêm vú trên bò sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM VÚ TRÊN BÒ SỮA Viêm vú là bệnh hay gặp trên trên nhiều loài gia súc nhất là bò sữa, gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi. Đặc thù của bệnh là tuyến vú bị viêm, sữa bị biến đổi về lý tính và hoá tính, làm giảm sản lượng và phẩm chất sữa. Thùy vú bị tổn thương, nếu viêm nặng bầu vú teo và mất khả năng tiết sữa, thú bị loại thải. Khi bò cái cho sữa bị bệnh viêm vú thì tỷ lệ sữa giảm từ 10 – 30%, viêm vú ở thể tiềm ẩn thì tỷ lệ sữa trung bình giảm 19%. Thông thường, trong đàn tỷ lệ bò cái cho sữa bị mắc bệnh viêm vú tiềm ẩn chiếm khoãng 60%, do đó nông hộ cần có biện pháp phòng bệnh để hạn chế thiệt hại kinh tế do bệnh viêm vú gây ra. I. Nguyên nhân gây bệnh viêm vú: Có 3 nguyên nhân chính gây bệnh viêm vú trên bò sữa: * Vật nuôi: - Do bò sữa có bầu vú quá to, núm vú dài thường gặp nhất là trên bò cao sản. Trong quá trình cho bê con bú hoặc vắt sữa làm xây xát, bầu vú bị tổn thương tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương hở này. - Ở một số con bò sữa, cơ vòng núm vú không co thắt hoặc co thắt yếu làm lổ núm vú hở, tạo điều kiện thuận lợi cho vi trùng xâm nhập. * Môi trường: - Do quy trình chăn nuôi vệ sinh kém, chuồng trại không thông thoáng, thiếu ánh sáng, mật độ nuôi dày, dinh dưỡng kém. - Do thao tác vắt sữa không đúng. - Không đảm bảo yêu cầu vệ sinh trước và sau khi vắt sữa cho bò sữa. * Vi khuẩn: - Do nhiều loại vi khuẩn và nấm gây bệnh xâm nhập vào tuyến vú qua các vết thương ở bầu vú, núm vú. Sữa là môi trường rất tốt cho vi khuẩn và nấm sinh sôi phát triển nhanh gây ra các ổ viêm, phá hoại các tổ chức tuyến sữa. Các loại vi khuẩn gây bệnh viêm vú thường gặp là Streptococcus (liên cầu khuẩn) chiếm 86%, Staphylococcus (tụ cầu khuẩn) chiếm 5,4%; trực trùng sinh mủ 2,7%; Ecoli chiếm 1,2%. Ngoài ra còn có vi khuẩn lao, virus FMD và nấm Candida albicaus. Đặc biệt nhóm Streptococcus agalactiae, Streptococcus dysagalactiae gây viêm vú truyền nhiễm. II. Triệu chứng: Tùy thuộc vào dạng (thể loại) viêm vú, gia súc có những biểu hiện triệu chứng khác nhau: - Viêm vú thể tương mạc: Bệnh thường xảy ra vài ngày sau khi sinh, bầu vú bị xung huyết, sưng ở một thùy hay toàn bộ bầu vú. Con vật có phản ứng đau khi ấn mạnh vào bầu vú, lượng sữa sẽ giảm rõ rệt ở thùy vú bị sưng. Lúc đầu, sự biến đổi trên sữa không rõ rệt nhưng khi bệnh lan rộng sẽ thấy sữa loãng, có những hạt lợn cợn. Con vật có hiện tượng sốt toàn thân (39,5 – 40oC), ít hoạt động, kém ăn và sản xuất sữa giảm. - Viêm vú thể cata: Đặc trưng của bệnh viêm vú thể cata là tế bào thượng bì biến dạng bị bong tróc ra, ở chỗ viêm có dịch thẩm xuất. Dịch này cùng với tế bào bạch cầu tạo ra một màng phủ trên niêm mạc đường tiết sữa. Khi vắt sữa, màng này tróc ra lẫn vào sữa tạo thành cặn sữa và đôi khi cặn sữa này làm tắt nghẽn ống dẫn sữa. Nếu tiếp tục vắt sữa, thời gian sau có thể sữa trở lại bình thường nhưng lượng sữa sẽ giảm đi. Kiểm tra bằng mắt thường thấy bầu vú gần như trở lại bình thường nhưng thành vú dầy lên và mềm, kiểm tra bằng tay thấy bên trong đầu vú có những cục mềm. - Viêm vú có mủ: vi khuẩn gây mủ tạo ra các ổ viêm lan tràn trong tuyến vú làm cho mủ và dịch thẩm xuất chảy xuống ống dẫn vào bể sữa. Ở thể cấp tính, con vật thể hiện triệu chứng toàn thân, sốt cao 40 – 41oC, mệt mỏi, bỏ ăn, thùy vú sưng, nóng, đỏ, đau. Lượng sữa giảm hay ngưng hẳn, trong sữa có lẫn các cục sữa vón và dịch mủ màu vàng hay vàng nhạt. Nếu bệnh chuyển sang thể mãn tính, điều trị không kịp thời thì các tuyến sữa bị teo, các tổ chức liên kết tăng lên thì lượng sữa khó trở lại bình thường. Có trường hợp bầu vú mắc bệnh đã điều trị khỏi nhưng ở chu kỳ sinh sản tiếp theo bệnh sẽ tái phát. - Viêm vú có máu: các thùy vú có nhiều bọc mủ to nhỏ khác nhau, thường do tái phát thể viêm cata có mủ. Khi đường tiết sữa bị tắc thì bọc mủ hình thành, các tổ chức của ống tiết sữa bị xuất huyết và tụ huyết. Bình thường ở thể cấp tính, con vật sốt cao 40 – 41oC kéo dài hàng tuần, thú mệt mỏi, kém ăn, có thể sưng một bên hay toàn bầu vú. Trên bầu vú có từng đám tụ huyết đỏ sẩm, con vật có biểu hiện đau đớn khi ta ấn tay vào bầu vú. Lượng sữa giảm hẳn hay ngưng tiết sữa, sữa loãng có màu hồng hay đỏ như máu, có những mãnh sữa vón lại. Bệnh tiến triển nhanh, biến chứng thường xảy ra nhiễm trùng huyết, con vật sẽ chết sau 7 - 9 ngày. - Viêm vú tiềm ẩn: là bệnh không gây hiện tượng viêm trên các tổ chức của tuyến vú mà làm thay đổi tính chất và giảm sản lượng sữa từ từ. Chính vì không có các triệu chứng rõ rệt nên rất khó phát hiện. Nguyên nhân chủ yếu là do bệnh viêm vú trước đó không được điều trị khỏi hẳn, bệnh chuyển sang thể mãn tính và tái phát khi có điều kiện thuận lợi; Sức đề kháng của cơ thể con vật kém trong quá trình chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh môi trường, chuồng trại kém, nhiệt độ thời tiết thay đổi bất thường sẽ làm bệnh bộc phát. III. Điều trị: Việc điều trị bò bị bệnh viêm vú nhằm mục đích giúp bầu vú tránh khỏi vi trùng phá hoại, đồng thời ngăn ngừa bầu vú trở thành nguồn truyền bệnh viêm vú trong đàn gia súc cái. Trong thời gian điều trị, gia súc bệnh phải được nhốt riêng, có người chăm sóc và dụng cụ riêng. Phân và chất độn chuồng, chất thải khác phải được xử lý tiêu độc hàng ngày. Cần tiên lượng những con không còn khả năng chữa khỏi nên loại thải sớm. Phương pháp điều trị: -Massage bầu vú nếu bầu vú sưng, nóng, đỏ, đau. -Nhúng núm vú vào dung dịch Iod. -Dùng các loại Pomade như Mastijet fort hay Super Mastikort, mỗi ống cho 1 núm vú viêm, liệu trình điều trị 2 – 3 ngày. -Dùng kháng sinh thay cho Pomade bơm vào núm vú, dùng tay vuốt thuốc lên trên. Liều dùng 200 – 400mg/1 núm vú. - Dùng Bio-dexa: 5-15 ml/ con, tiêm bắp hay tĩnh mạch (từ 1-3 ngày) - Giảm đau, sốt dùng vitamin C + Analgine 20ml/1con, tiêm bắp. - Sử dụng kháng sinh Remacycline (liều 1ml/10kgP), hoặc Gentamycine (liều 1 gam/ con), Cephalexin (liều 1,5 gam/ con), tiêm bắp. Chú ý: Đối với liệu trình điều trị kháng sinh trên bò, ta nên làm kháng sinh đồ để xác định tính đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh thì việc điều trị có kết quả hơn. Ngoài ra trong quá trình điều trị cũng cần các biện pháp hỗ trợ như: giảm lượng thức ăn tinh trên bò bị viêm vú, có chế độ chăm sóc riêng, bổ sung ADE và các vitamin. IV. Phòng bệnh: -Áp dụng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng tốt. -Định kỳ vệ sinh sát trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và các dụng cụ vắt sữa. -Thực hiện thao tác vắt sữa đúng kỹ thuật. -Thường xuyên kiểm tra bầu vú, kiểm tra độ nhiễm vi sinh của sữa để sớm phát hiện bệnh viêm vú. -Thực hiện quy trình kiểm soát vệ sinh vắt sữa. BSTY. Nguyễn Thị Hồng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf74_8536.pdf
Tài liệu liên quan