Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị các bệnh lý trong lồng ngực được áp dụng đầu tiên tại BV
bình Dân năm 1996 điều trị bệnh tăng tiết mồ hôi tay. Ngày nay, PTNS được áp dụng nhiều trong các bệnh lý
của phổi, trung thất. Lợi điểm: đường mổ nhỏ, không banh sườn nên hậu phẫu nhẹ nhàng, ít đau, không hạn chế
hô hấp. Có thể sử dụng dụng cụ mổ thông thường để phẫu tích qua đường mổ nhỏ (4-6cm), nhìn qua màn hình.
Có thể phẫu tích hoàn toàn qua nội soi với dụng cụ nội soi lồng ngực. Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị bệnh lý
lồng ngực bằng PTNS.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả các trường hợp điều trị bằng PTNS lồng ngực tại BV Bình Dân.
Kết quả: Khoa ngoại lồng ngực BV Bình Dân từ 1996 đến nay đã phẫu thuật hơn 3000 trường hợp đổ
mồ hôi tay. Chúng tôi cải tiến từ 3 lỗ trocar còn 1 lỗ trocar, bảo đảm được tính hiệu quả, an toàn và thẩm
mỹ. Từ năm 2000, đã có 112 trường hợp NSLN để chẩn đoán và điều trị các bệnh lý phổi và trung thất.
Trong đó có 41 TH cắt thùy phổi bằng đường mổ nhỏ có sự hỗ trợ của nội soi, 2 TH cắt thùy phổi hoàn toàn
qua nội soi. Sinh thiết qua nội soi 52 TH. Cắt phổi hình chêm điều trị u phổi ngoại biên 1 trường hợp. Đối
với u trung thất, chúng tôi đã cắt u hoàn toàn qua nội soi cho 9 TH, sinh thiết 10 TH, 2 TH u tuyến ức.
Ngoài ra chúng tôi còn điều trị các bệnh lý khác như cắt kén khí, mở cửa sổ máng ngoài tim. Qua đánh giá
kết quả, cho thấy tỉ lệ thành công cao, an toàn, thời gian hồi phục nhanh, ít đau, ít biến chứng Tỉ lệ tử
vong sau mổ thấp (3 trường hợp u phổi).
4 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi lồng ngực tại bệnh viện bình dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 267
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC TẠI BV BÌNH DÂN
Nguyễn Ngọc Bình*, Hồ Khánh Đức*, Văn Tần*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị các bệnh lý trong lồng ngực được áp dụng đầu tiên tại BV
bình Dân năm 1996 điều trị bệnh tăng tiết mồ hôi tay. Ngày nay, PTNS được áp dụng nhiều trong các bệnh lý
của phổi, trung thất. Lợi điểm: đường mổ nhỏ, không banh sườn nên hậu phẫu nhẹ nhàng, ít đau, không hạn chế
hô hấp. Có thể sử dụng dụng cụ mổ thông thường để phẫu tích qua đường mổ nhỏ (4-6cm), nhìn qua màn hình.
Có thể phẫu tích hoàn toàn qua nội soi với dụng cụ nội soi lồng ngực. Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị bệnh lý
lồng ngực bằng PTNS.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả các trường hợp điều trị bằng PTNS lồng ngực tại BV Bình Dân.
Kết quả: Khoa ngoại lồng ngực BV Bình Dân từ 1996 đến nay đã phẫu thuật hơn 3000 trường hợp đổ
mồ hôi tay. Chúng tôi cải tiến từ 3 lỗ trocar còn 1 lỗ trocar, bảo đảm được tính hiệu quả, an toàn và thẩm
mỹ. Từ năm 2000, đã có 112 trường hợp NSLN để chẩn đoán và điều trị các bệnh lý phổi và trung thất.
Trong đó có 41 TH cắt thùy phổi bằng đường mổ nhỏ có sự hỗ trợ của nội soi, 2 TH cắt thùy phổi hoàn toàn
qua nội soi. Sinh thiết qua nội soi 52 TH. Cắt phổi hình chêm điều trị u phổi ngoại biên 1 trường hợp. Đối
với u trung thất, chúng tôi đã cắt u hoàn toàn qua nội soi cho 9 TH, sinh thiết 10 TH, 2 TH u tuyến ức.
Ngoài ra chúng tôi còn điều trị các bệnh lý khác như cắt kén khí, mở cửa sổ máng ngoài tim.. Qua đánh giá
kết quả, cho thấy tỉ lệ thành công cao, an toàn, thời gian hồi phục nhanh, ít đau, ít biến chứng Tỉ lệ tử
vong sau mổ thấp (3 trường hợp u phổi).
Kết luận: PTNS lồng ngực điều trị bệnh lý phổi và trung thất cho thấy những ưu điểm hơn so với mổ mở
kinh điển. Kết quả điều trị tại BV Bình Dân cho thấy tính hiệu quả, an toàn và thẩm mỹ cao của phương pháp.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi lồng ngực – BV Bình Dân, tăng tiết mồ hôi tay, u phổi, u trung thất.
ABSTRACT
THORACOSCOPIC SURGERY AT BINH DAN HOSPITAL
Nguyen Ngoc Binh, Ho Khanh Duc, Van Tan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 267 - 270
Introduction: Thoracoscopic surgery (TS) was first applied in 1996 at Binh Dan hospital for treatment of
hyperhydrosis. Today, we perform TS to treat many diseases of the lungs and the mediastinum. The great
advantage of TS over sternotomy or thoracotomy is avoidance of muscle division and bone spread that allows for
diminished duration and intensity of pain and a shorter time to return to full activity. It is possible to use the
conventional instruments for dissection through a small incision (4 - 6cm) with video-assisted (VATS) or
complete dissection with endoscopic instruments.
Objective: To evaluate the treatment outcomes of the thoracic diseases with TS surgery at Binh Dan
hospital.
Methods: In the retrospective study, the treatment outcomes of patients who received the TS at Binh Dan
hospital between 2000-2012 were decribed.
Results: From 1996, we operated more than 3000 cases of hyperhydrosis. We improved from 3 to 1 trocar
and ensured the efficiency, safety and aesthetics. Since 2000, there have been 112 cases of thoracic endoscopy for
* Trưởng phòng Chỉ đạo tuyến và Nghiên cứu khoa học, bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên hệ: ThS.BS.Nguyễn Ngọc Bình ĐT: 0903837670 Email: bsbinh99@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 268
diagnosis and treatment of diseases of the lungs and the mediastinum. 41 cases of pulmonary lobectomy with
VATS and 2 cases lobectomy with complete TS dissection. Endoscopic biopsy of 52 cases. Wedge resection for
peripheral lung tumor (1 case). For the mediastinal tumor, complete ablation of the tumor by TS in 11cases
(including 2 cases of thymoma) and biopsy of 10 cases. In addition, we also performed the bleb ablation to treat the
spontaneous pneumothorax or pericardial fenestration to treat the pericardial effusion by TS. There was few
postoperatives complications, less pain and fast recovery time. The postoperative mortality rate is low (3 cases of
lung cancer).
Conclusion: Thoracoscopic surgery for treatment of lung and mediastinal diseases show more advantages
compared to classic open surgery. The treatment outcomes in the Binh Dan hospital showed that this method is
effective, safe and aesthetic.
Keywords: Thoracoscopic surgery – Binh Dan hospital, hyperhydrosis disease of the lung mediastinum
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật mở điều trị các bệnh lý của
phổi, trung thất, màng phổi cần phải mở ngực
lớn, banh rộng khe liên sườn. Đây là phẫu
thuật nặng nề, thời gian hồi phục sau mổ
chậm do đường mổ dài, đau nhiều và có nhiều
biến chứng xảy ra như nhiễm trùng vết mổ,
tràn khí dưới da(2).
Ngày nay, các phương pháp điều trị xâm
lấm tối thiểu, thời gian hồi phục nhanh, mang
tính thẩm mỹ cao đã phát triển. Khoảng hơn 30
năm, kể từ khi Philippe Mouret cắt túi mật nội
soi đầu tiên năm 1987, phẫu thuật nội soi (PTNS)
đã không ngừng phát triển trong nhiều chuyên
khoa khác nhau, đã đem đến cho người bệnh
nhiều lợi ích.
Cũng trong xu hướng phát triển chung của
các chuyên ngành khác, phẫu thuật nội soi lồng
ngực (PTNSLN) tại BV Bình Dân đã từng bước
phát triển và đã bước đầu điều trị được nhiều
bệnh lý trong lồng ngực.
Mục tiêu của đề tài là đánh giá kết quả
điều trị các bệnh lý lồng ngực qua PTNS tại
BV Bình Dân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu mô tả.
Đối tượng là các bệnh nhân được PTNSLN
điều trị các bệnh lý phổi và trung thất từ 1/2000 –
12/1012.
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian 12 năm, chúng tôi đã
phẫu thuật 112 bệnh nhân bị các bệnh lý phổi và
trung thất qua nội soi.
Đặc điểm dịch tễ mẫu nghiên cứu
Giới tính
Số TH Tỉ lệ %
Nữ 45 40
Nam 67 60
Tuổi
Lớn nhất: 84 tuổi
Nhỏ nhất: 22 tuổi
Trung bình: 54,12
Phân loại bệnh phẫu thuật
Bệnh Số TH Tỉ lệ %
U phổi 72 64,28
U trung thất 30 25
U tuyến ức 2 1,7
U màng phổi 4 3,57
Tràn dịch màng ngoài tim 2 1,7
Tràn khí màng phổi 2 1,7
Tổng 112 100%
Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp Số TH Tỉ lệ %
NS sinh thiết 52 46,4
Cắt thùy phổi qua hỗ trợ NS
(VATS)
41 36,6
Cắt thùy phổi hoàn toàn qua NS 2 1,7
Cắt u màng phổi 2 1,7
Cắt u trung thất 9 8,1
Cắt u tuyến ức 2 1,7
Mở cửa sổ màng ngoài tim 2 1,7
Khâu kén khí 2 1,7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 269
Kết quả điều trị
Số TH Tỉ lệ %
NSLN hoàn toàn 71 63,4
NS với đường mổ nhỏ 41 36,6
Biến chứng trong lúc mổ 1 (chảy máu)
1 (Tràn khí dưới da)
1,7
Tử vong sau mổ 3 2,67
BÀN LUẬN
PTLN đã được biết từ lâu trên thế giới,
nhưng chỉ được phát triển mạnh mẽ từ thập niên
60 với sự phát triển của gây mê và hồi sức. PT để
điều trị các bệnh lý trong lồng ngực là phẫu
thuật lớn, đòi hỏi phải mở ngực rộng, banh sườn
để có đủ khoảng không thao tác. Do đó, bệnh
nhân đau nhiều sau mổ, hạn chế hô hấp, không
vận động sớm từ đó gây ra nhiều biến chứng
hậu phẫu(2,3).
Xu hướng phẫu thuật hiện đại là xâm lấn tối
thiểu, thời gian hồi phục nhanh, giúp bệnh nhân
trở về với cuộc sống lao động thường ngày
nhanh chóng, từ đó làm giảm chi phí điều trị. Từ
sự phát triển mạnh mẽ của PTNS trong điều trị
các bệnh lý trong ổ bụng đã thúc đẩy sự phát
triển của PTNSLN(2,4).
Tại Việt Nam, PTNS lần đầu tiên được áp
dụng tại BV Chợ Rẫy với trường hợp cắt túi mật
nội soi năm 1992. Năm 1996, tại BV Bình Dân, GS
Văn Tần với sự hỗ trợ của các bác sĩ Hongkong
đã tiến hành ca PTNSLN đầu tiên cắt thần kinh
giao cảm ngực để điều trị chứng tăng tiết mồ hôi
tay. Sau đó, các bệnh lý của phổi, trung thất cũng
bắt đầu được nghiên cứu áp dụng điều trị bằng
PTNS tại BV Bình Dân(4).
Ưu điểm của PTNSLN là đường mổ nhỏ
< 1cm, không banh sườn nên hậu phẫu rất nhẹ
nhàng, ít đau, không hạn chế hô hấp, vận động
sớm. Từ đó giúp giảm đi biến chứng xẹp phổi,
nhiễm trùng phổi, nhiễm trùng vết mổ, giảm
ngắn được thời gian nằm viện(1,2,3). Ngoài ra, NS
cũng giúp chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh
lý, tình trạng di căn hạch, từ đó có thể sinh thiết
để chẩn đoán xác định, tránh các trường hợp
phải mở ngực vô ích(4).
Chỉ định của PTNSLN là chẩn đoán và điều
trị các bệnh lý(2):
-Bệnh lý màng phổi: U, tràn dịch, tràn máu,
tràn khí, máu đông, dày dính.
-Bệnh lý nhu mô phổi: Ung thư, nốt đơn độc,
u lao, u nấm, kén khí.
-U trung thất: các loại u ở trung thất trước và
sau, bệnh nhược cơ do u tồn tại tuyến ức, bệnh
lý thực quản.
-Màng ngoài tim: tràn dịch, tràn máu màng
ngoài tim.
-Cắt hạch thần kinh giao cảm ngực điều trị
chứng tăng tiết mồ hôi tay
Kể từ năm 1996, sau TH cắt thần kinh giao
cảm ngực qua NS đầu tiên, chúng tôi đã có
những bước phát triển mạnh mẽ trong PTNSLN.
Từ tư thế nằm nghiêng hoặc sấp gây nhiều trở
ngại cho gây mê, với 2 lỗ trocar mỗi bên ngực,
chúng tôi đã cải tiến sang nằm ngửa, rất thuận
lợi cho gây mê và chỉ với 1 trocar. Đến nay,
chúng tôi đã phẫu thuật trên 3000 trường hợp.
Từ năm 2000, chúng tôi đã bước đầu thực
hiện NSLN để chẩn đoán trong lúc mổ, đánh giá
khối u phổi, u trung thất, tình trạng di căn hạch
trung thất. Sau đó chúng tôi chuyển mổ hở để xử
lý tổn thương. Các trường hợp đánh giá không
thể cắt được, chúng tôi sinh thiết qua NS, tránh
cho bệnh nhân khỏi đường mở ngực vô ích.
Trong 112 TH, chúng tôi NS và sinh thiết 52 TH,
tỉ lệ là 46,4%.
Sau khi tích lũy kinh nghiệm, chọn bệnh phù
hợp, đúng chỉ định, tư thế bệnh nhân, vị trí và số
lượng các trocar, kỹ năng phẫu tích chúng tôi
bắt đầu tiến hành xử trí các tổn thương qua NS.
Lợi thế của NSLN là không cần bơm hơi, chỉ cần
xẹp phổi là có khoang thao tác. Tuy nhiên, do
khe sườn hẹp, do đó biên độ hoạt động của
trocar hạn chế hơn so với ổ bụng. Vì vậy, chọn vị
trí trocar cho từng tổn thương là rất quan trọng.
Đặc biệt, các mạch máu trong LN có kích thước
lớn, lưu lượng mạnh, khi chảy máu rất khó cầm
máu qua NS, phải mở ngực ngay, rất nguy hiểm
có thể gây tử vong.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 270
Trong các trường hợp cắt thùy phổi, khi
phẫu tích các mạch máu rất cẩn thận, cần có các
dụng cụ chuyên dụng để kẹp cắt như stapler
mạch máu. Tuy nhiên, các dụng cụ này đắt tiền
và tại nước ta cũng chưa có, nên giai đoạn đầu,
chúng tôi phải mở đường mổ nhỏ 4-5 cm, để
phẩu tích, kẹp clip hoặc hemoclock đối với từng
mạch máu và may phế quản gốc với prolene.
Trong 72 ca ung thư phổi, chúng tôi đã cắt thùy
phổi với NS hỗ trợ là 41 TH. Kết quả phẫu thuật
rất tốt, sau mổ với đường mổ nhỏ 5cm, không
banh sườn, hậu phẫu bệnh nhân rất nhẹ nhàng
và bảo đảm được kết quả điều trị ung thư.
Chúng tôi có 3 TH tử vong sau mổ, trong đó có 1
TH chảy máu trong lúc mổ do tuột một tĩnh
mạch phổi. 2 TH tử vong do biến chứng hô hấp
sau mổ. Gần đây, sau khi có nhiều kinh nghiệm
trong phẫu tích, chúng tôi đã tiến hành 2 TH cắt
thùy phổi hoàn toàn qua NS, bệnh phẩm được
lấy ra từ đường mở ngực nhỏ 3 cm.
Đối với các u trung thất, chúng tôi chỉ chọn
những khối u có kích thước nhỏ < 5cm, khả năng
lành tính để PTNS. Các TH này, khả năng cắt u
được hoàn toàn qua NS là rất cao(1,3,4). Chúng tôi
không cần đường mở ngực nhỏ đễ hỗ trợ. Có thể
sử dụng dao cắt siêu âm để giúp khả năng cầm
máu nhanh hơn, rút ngắn thời gian phẫu thuật.
Chúng tôi đã thực hiện cắt hoàn toàn qua nội soi
9 TH u trung thất với kích thước u trung bình
< 5cm. Đặc biệt có TH u dính vào màng ngoài
tim, chúng tôi đã cắt bỏ luôn màng ngoài tim để
lấy trọn khối u. Hậu phẫu các bệnh nhân rất tốt.
Bệnh nhân có thể ngồi dậy và vận động vào
ngày hậu phẫu thứ 2.
PTNSLN rất có giá trị trong điều trị bệnh
nhược cơ do u hoặc tồn tại tuyến ức. Trước đây,
để cắt bỏ tuyến ức, chúng ta phải chẻ xương ức
mới có thể lấy được toàn bộ mô tuyến ức. Sau đó
phải may bằng chỉ thép. Sau mổ, bệnh nhân đau
rất nhiều, có nguy cơ nhiễm trùng xương ức.
Ngày nay, với những vết mổ nhỏ ở ngực, có thể
bên phải hoặc trái, chúng ta có thể thay thế cho
phẫu thuật chẻ xương ức(2,4). Chúng tôi cũng đã
tiến hành cắt 2 TH u tuyến ức thành công hoàn
toàn qua NSLN. Kết quả phẫu thuật rất tuyệt
vời, bảo đảm được nguyên tắc điều trị là lấy sạch
mô tuyến ức, nhưng hậu phẫu rất nhẹ nhàng và
mang tính thẩm mỹ cao.
KẾT LUẬN
PTNSLN đã từng bước phát triển vững chắc
tại BV Bình Dân. Từ thời gian đầu chỉ cắt thần
kinh giao cảm ngực, đến nay chúng tôi đã xử lý
gần như hầu hết các bệnh lý trong lồng ngực.
Kết quả điều trị rất tốt. Tỉ lệ thành công qua điều
trị NS cao, có thể thực hiện qua đường mổ nhỏ
với hỗ trợ của NS hoặc xử trí tổn thương hoàn
toàn qua NS. Tỉ lệ biến chứng và tử vong do
PTNS rất thấp. Chúng tôi có thể kết luận
PTNSLN an toàn, hiệu quả nhưng cần có kinh
nghiệm trong mổ mở và mổ NS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dawson CT “Anterior Mediastinal Mass”, Resident Research
2008.
2. Nguyễn Công Minh, “ Chẩn đoán và điều trị u trung thất
bằng phẫu thuật nội soi”, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch,
2008
3. Slinger P, Krslib C “Management of the patient with a large
nterior mediatinal mass: recurring myths”, Curr Opin
Anaesthesiol 20:1-3, 2007.
4. Strolls DC, Rosado-de-Christenson ML, Jett JR.” Primary
mediastinal tumors. Part I: Tumors of the anterior
mediastinum”. Chest 1997; 112:511.
Ngày nhận bài báo: 05/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 267_270_0242.pdf