Trong nhiều năm qua, phẫu thuật mổ hở cắt thận tận gốc cho bướu chủ mô thận
hay cắt thận-niệu quản cho bướu niệu mạc ở bể thận bằng mổ hở với đường
rạch da rộng đã là quy chuẩn cho phẫu thuật trong bướu chủ mô hay bướu bể
th ận. Trong bướu chủ mô thận đã chuẩn hóa kỹ thuật mổ: dùng đường mổ dưới
sườn, vào ổ bụng trong phúc mạcnhằm khống chế sớmvà thắt sớm toàn bộ
mạch máu cuống thận
(5)
. Trong cắt thận-niệu quản dùng đường sau phúc mạc
vùng hông lưng kéo dài hoặc hai đường mổ riêng biệt ở hông lưng và hố chậu.
Đây là những phẫu thuật lớn với đường mổ rất dài, nó cho phép khống chế
cuống thận sớm, lấy chồi bướu trong tĩnh mạch chủ dưới, cắt bướu lớn hoặc
bướu diễn tiến xa.
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, phẫu thuật cắt thận qua nội soi ổ
bụng –lúc đầu là cho bệnh lý thận lành tính và sau đó là bướu ác thận –dần
được thế giới chấp nhận trong Niệu khoa
(41)
. Ph ẫu thuật nội soi –cả ngã trong
và sau phúc mạc -cắt thận tận gốc cho bướu chủ môth ận vẫn bảo đảm các
nguyên tắc mổ ung thư thận còn khu trú: khống chế các mạch máu cuống thận
ngay từ đầu và lấy nguyên khối th ận, tuyến thượng thận, niệu quản, mỡ quanh
th ận cùng bao Gerota
(43)
. Tuy v ậy, trong giai đoạn mới ứng dụng, những phẫu
thu ật này gây ra nhiều điểm băn khoăn về thời gian phẫu thuật lâu, tỉ lệ thương
tật và kết quả lâu dài về mặt ung thư học so với mổ hở cổ điển
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi cắt thận điều trị ung thư thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT THẬN ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THẬN
MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm qua, phẫu thuật mổ hở cắt thận tận gốc cho bướu chủ mô thận
hay cắt thận-niệu quản cho bướu niệu mạc ở bể thận bằng mổ hở với đường
rạch da rộng đã là quy chuẩn cho phẫu thuật trong bướu chủ mô hay bướu bể
thận. Trong bướu chủ mô thận đã chuẩn hóa kỹ thuật mổ: dùng đường mổ dưới
sườn, vào ổ bụng trong phúc mạc nhằm khống chế sớm và thắt sớm toàn bộ
mạch máu cuống thận(5). Trong cắt thận-niệu quản dùng đường sau phúc mạc
vùng hông lưng kéo dài hoặc hai đường mổ riêng biệt ở hông lưng và hố chậu.
Đây là những phẫu thuật lớn với đường mổ rất dài, nó cho phép khống chế
cuống thận sớm, lấy chồi bướu trong tĩnh mạch chủ dưới, cắt bướu lớn hoặc
bướu diễn tiến xa.
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, phẫu thuật cắt thận qua nội soi ổ
bụng – lúc đầu là cho bệnh lý thận lành tính và sau đó là bướu ác thận – dần
được thế giới chấp nhận trong Niệu khoa(41). Phẫu thuật nội soi – cả ngã trong
và sau phúc mạc - cắt thận tận gốc cho bướu chủ mô thận vẫn bảo đảm các
nguyên tắc mổ ung thư thận còn khu trú: khống chế các mạch máu cuống thận
ngay từ đầu và lấy nguyên khối thận, tuyến thượng thận, niệu quản, mỡ quanh
thận cùng bao Gerota(43). Tuy vậy, trong giai đoạn mới ứng dụng, những phẫu
thuật này gây ra nhiều điểm băn khoăn về thời gian phẫu thuật lâu, tỉ lệ thương
tật và kết quả lâu dài về mặt ung thư học so với mổ hở cổ điển(10,11,41,45).
CHỈ ĐỊNH
Cắt thận tận gốc
Nói chung, các tác giả(8,24,40,47) giới hạn bướu chủ mô thận từ T1 đến T2, bướu
< 10 cm đường kính. Riêng bướu T3a cũng có thể mổ nội soi nếu kích thước
bướu cho phép.
Gill(21) cho rằng bướu ≤ 8 cm là chỉ định tốt cho cắt thận tận gốc qua nội soi ổ
bụng với điều kiện bướu không xâm lấn hạch hay tĩnh mạch thận. Bướu > 8 cm
hay bướu ăn lan tĩnh mạch hay vùng quanh thận không nên làm phẫu thuật nội
soi. Tuy nhiên, trong 30 trường hợp cắt thận tận gốc qua nội soi sau phúc mạc,
ông thấy rằng nhóm bệnh phẩm lớn (bướu 8cm, bệnh phẩm 200g) vẫn mổ
cắt thận tận gốc ngã nội soi sau phúc mạc an toàn và hiệu quả so với nhóm
bệnh phẩm nhỏ (bướu < 8cm, bệnh phẩm < 200g). Ông kết luận có thể cắt thận
nội soi sau phúc mạc cho bướu chủ mô thận T1 - T3a N0 M0.
Cicco(10) chỉ định mổ rộng hơn: bướu chủ mô thận < 9 cm, bướu pT3 N (+)
M(+) (chẩn đoán sau mổ), với 50 trường hợp cắt thận tận gốc qua nội soi sau
phúc mạc. Tuy vậy để an toàn, ông khuyên nên mổ nội soi cho bướu 5 cm.
Portis(41) tổng kết 400 trường hợp cắt thận tận gốc qua nội soi trong y văn thấy
bướu có kích thước thay đổi từ 2 -13 cm (biên độ lớn).
Mattar(33) mở rộng hơn chỉ định mổ nội soi trong một số trường hợp bướu thận
ăn lan tại chỗ còn khu trú và hạch di căn ít. Ông cho rằng phẫu thuật nội soi
làm giảm khối tế bào bướu (cytoreductive nephrectomy) thì an toàn và ít biến
chứng hơn mổ hở.
Trong bướu thận với chồi bướu trong tĩnh mạch chủ dưới: Varkarakis - trên 4
bệnh nhân - dùng kỹ thuật cắt thận có hỗ trợ bằng nội soi (laparoscopic-assisted
nephrectomy) và mở tĩnh mạch chủ dưới lấy chồi bướu(49).
Nội soi ổ bụng trong phúc mạc hay sau phúc mạc ?
Theo Hội Niệu khoa Pháp (AFU),1999(2) trong 261 trường hợp cắt thận bướu
qua nội soi có 156 trường hợp cắt qua nội soi trong phúc mạc (59,8%) và 105
trường hợp cắt qua nội soi sau phúc mạc (40,2%).
Ono(39) trong loạt 25 bệnh nhân có 11 trường hợp nội soi trong phúc mạc và 14
bệnh nhân nội soi sau phúc mạc. Chúng tôi (36) trong loạt 31 bệnh nhân có 17
trường hợp nội soi trong phúc mạc (54,8%) và 14 trường hợp nội soi sau phúc
mạc (45,2%).
Cắt thận bán phần
Chỉ định cắt bán phần thận trong bướu ác thận
Chỉ định cắt thận bán phần trong bướu ác thận là bệnh nhân có bướu chủ mô
thận hai bên hay bướu thận trên thận độc nhất. Chỉ định khác là bướu thận một
bên mà thận bên kia bị các bệnh lý có thể làm suy giảm chức năng thận trong
tương lai như hẹp động mạch thận, thận ứ nước, viêm thận bể thận, trào ngược
bàng quang-niệu quản, sạn niệu hay các bệnh hệ thống như tiểu đường hay xơ
hoá thận (nephrosclerosis)(37)
Ngày nay nhiều tác giả(27,37) thống nhất rằng phẫu thuật cắt bán phần thận có
thể tiến hành ở bệnh nhân có bướu ác đơn độc, bướu nhỏ (< 4 cm) và thận bên
kia có chức năng bình thường.
Mổ nội soi hay mổ hở ?
Schiff(44) chủ trương cắt thận bán phần nội soi cho bướu chủ mô thận nhỏ còn
cắt thận bán phần bắt buộc hay bướu thận lớn nên mổ hở cắt thận bán phần vì
nói chung mổ nội soi có thời gian thiếu máu nóng dài hơn và có nhiều biến
chứng hơn mổ hở(1).
Theo Lane và Gill(20,31): tại bệnh viện Cleveland (Hoa Kỳ) hiện nay cắt thận
bán phần qua nội soi là một kỹ thuật có thể thay thế mổ hở bất kể vị trí của
bướu và ngay cả bướu trên thận độc nhất.
Nội soi ổ bụng trong phúc mạc hay sau phúc mạc ?
Theo Gill(22,23) thì tùy thuộc vào vị trí bướu: bướu mặt sau hay sau bên thì nội
soi sau phúc mạc, bướu mặt trước, trước bên hay bên hay bướu cực trên thì nên
nội soi trong phúc mạc. Trong 50 trường hợp đầu tiên của ông(22) có 28 trường
hợp nội soi trong phúc mạc và 22 trường hợp nội soi sau phúc mạc.
Châu Quý Thuận(9) mổ ngã sau phúc mạc qua 2 trường hợp đầu tiên. Chúng
tôi-cũng qua 2 trường hợp - thích ngã trong phúc mạc để dễ dàng kiểm soát
cuống thận.
KỸ THUẬT
Cắt thận tận gốc qua nội soi
Phẫu thuật cắt thận qua nội soi trong phúc mạc
Trong bướu chủ mô thận (7,36,50,51)
Tư thế bệnh nhân nằm nghiêng cổ điển có biến đổi (750) (Hình 1).
(A) (B)
Hình 1: A. Tư thế bệnh nhân cắt thận tận gốc qua nội soi ổ bụng trong phúc
mạc B. Phân bố các trocar
Dùng 4 trocar (2 trocar 10mm và 2 trocar 5mm) trong đó trocar đầu tiên được
đặt vào ổ bụng theo phương pháp “mở”. Các bước phẫu thuật: (1) Cắt xẻ phúc
mạc, mạc Toldt hạ góc đại tràng. (2) Cắt cột tĩnh mạch sinh dục (3) Cột cắt
niệu quản. (4) Cột tĩnh mạch thượng thận (nếu lấy luôn tuyến thượng thận) (5)
Cột và kẹp cắt riêng động mạch, tĩnh mạch thận. (5) Giải phóng hoàn toàn mẫu
bệnh phẩm (5) Lấy thận ra ngoài qua chỗ rạch mở rộng của trocar 10 mm, bệnh
phẩm bướu thận được cho vào endosac trước khi lôi ra khỏi thành bụng. Trong
bướu thận cực dưới có thể chừa lại tuyến thượng thận.
Trong bướu niệu mạc ở bể thận(36)
Phẫu thuật giống như trong cắt thận đơn giản, nhưng sau đó phải bóc tách toàn
bộ niệu quản đến chỗ cắm vào bàng quang để cắt đoạn niệu quản nội thành và
một khoanh cơ bàng quang xung quanh niệu quản.
Phẫu thuật cắt thận qua nội soi sau phúc mạc
Trong bướu chủ mô thận (7,36,50,51)
Tư thế bệnh nhân: nằm nghiêng cổ điển (tư thế mổ hở thận) (Hình 2)
(A)
(B)
Hình 2: A. Tư thế bệnh nhân cắt thận tận gốc qua nội soi ổ bụng sau phúc mạc
B. Kỹ thuật 5 trocar theo đường nách
Các bước phẫu thuật: làm “mini-lumbotomy” ngay dưới đầu xương sườn 12 trên
đường nách sau dài 1,5cm. Dùng bong bóng bơm 400-50ml nước hoặc không
khí theo kiểu của Gaur đặt vào khoang cạnh thận sau. Đặt thêm 3 - 4 trocar theo
đường nách: 1 trocar 10mm ở đường nách giữa ngay trên mào chậu cho ống soi,
2 trocar làm việc ở đường nách sau (có trocar đầu tiên), 1 trocar 5mm ở đường
nách trước.
Mổ cắt thận nội soi theo các nguyên tắc cắt bướu thận trong mổ hở(43): kẹp cắt
cuống thận từ đầu ở ngoài bao Gerota, cắt niệu quản, tách quanh thận ở ngoài
bao này để lấy hết mỡ quanh thận.
Xử lý cuống thận sẽ kẹp động mạch thận trước bằng clip kim loại, kẹp tĩnh
mạch thận bằng clip kim loại hay bằng hemolok bằng nhựa. Có thể dùng chỉ
vicryl cột để làm nhỏ khẩu kính mạch máu trước khi kẹp nó bằng clip kim
loại(28,50). Dùng endosac lấy thận ra ngoài để tránh sự rơi vãi tế bào ung thư.
Trong bướu niệu mạc ở bể thận(36)
Có 2 cách: (1) Kết hợp cắt quanh miệng niệu quản qua nội soi bàng quang và
cắt thận-niệu quản qua nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng hoặc (2) Kết hợp
cắt thận qua nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng với cắt niệu quản qua đường
rạch mở ở vùng chậu.
Kỹ thuật xử lý mạch máu cuống thận như thế nào ?
Gill(21) xử lý cuống thận sau khi xẻ cân Gerota (trong cân), Abbou(1) xử lý
cuống thận hoàn toàn ngoài cân này, dùng endoGIA để kẹp cắt tĩnh mạch
thận(1,21). Janetschek(28) dùng phương pháp cột tĩnh mạch thận bằng chỉ trước
khi clip tĩnh mạch dể thay thế endoGIA.
Chúng tôi chủ trương xử lý cuống thận ngoài cân Gerota. Chúng tôi dùng clip
kim loại và hemolok cho thấy an toàn và rẻ tiền(36,50). Trong thời gian đầu khi
chưa có hemolok chúng tôi dùng kỹ thuật cột tĩnh mạch thận của Janetschek để
làm nhỏ khẩu kính tĩnh mạch thận trước khi clip tĩnh mạch.
Vấn đề nạo hạch
Tuy Robson 1963(43) trong phẫu thuật cắt thận tận gốc cho bướu chủ mô thận
(mổ hở) vẫn nhấn mạnh việc nạo hạch rốn thận để làm tăng tỉ lệ sống còn
nhưng đây vẫn là điều còn bàn cãi. Ngày nay, hầu hết các tác giả(1,5,10,21,37) đều
không đề cập đến yêu cầu nạo hạch vùng trong cắt thận tận gốc cho bướu chủ
mô thận.
Trong loạt 31 bệnh nhân cắt thận tận gốc qua nội soi ổ bụng củ chúng tôi trong
thời gian 3 năm (từ 5/2003 đến 5/2006) –trong và ngoài phúc mạc- cũng không
nạo hạch(36).
Tỉ lệ thương tật
Shuford(46), trên 74 bệnh nhân, so sánh mổ hở, mổ nội soi hỗ trợ bằng bàn tay,
và mổ nội soi hoàn toàn thấy tỉ lệ biến chứng, lượng máu mất không khác nhau ở
cả 3 nhóm nhưng nhóm mổ nội soi có thời gian nằm viện ngắn hơn. Ông cho
rằng với tỉ lệ thương tật tương đương mổ hở nhưng với lợi ích của phẫu thuật ít
xâm hại, cắt thận nội soi có ưu thế rõ rệt đối với bướu T1 và T2.
Trong loạt 31 bệnh nhân cắt thận tận gốc qua nội soi của chúng tôi chỉ có 2
trường hợp: một trường hợp tăng thán khí nặng khi mổ và một trường hợp chảy
máu phải mổ lại: 6,5%(36) Cũng như Ono(38,39), chúng tôi thấy ở nhóm cắt thận
sau phúc mạc bệnh nhân có nhu động ruột sớm hơn, bệnh nhân hồi phục nhanh
hơn.
Cắt thận bán phần qua nội soi
Các kỹ thuật cầm máu trong cắt thận bán phần
Guillonneau(25) khuyên nên kẹp cuống thận kết hợp (Hình 3, 4) với khâu cầm
máu chủ mô thận được làm lạnh qua ống thông niệu quản sẽ ít mất máu hơn và
thời gian mổ ngắn hơn.
Hình 3. Satinsky nội soi kẹp cuống thận en bloc
Hình 4. Kẹp bulldog riêng biệt ĐM và TM thận trong nội soi trong phúc mạc
trong nội soi sau phúc mạc
Làm lạnh thận có 3 kỹ thuật(52): bơm dung dịch Saline lạnh qua ống thông niệu
quản, truyền vào động mạch thận dung dịch Saline lạnh và đắp lạnh thận như
trong mổ hở.
Khâu cầm máu cổ điển có làm lạnh thận đi kèm hay không(14,15,22): kinh
nghiệm của bệnh viện Cleveland trên 275 bệnh nhân đầu tiên với kích thước
bướu trung bình là 2,9 cm, cho cả bướu thận trên thận độc nhất, bướu nằm ở
vùng trung tâm(20) và rốn thận.
Các chất bịt kín mô (tissue sealants)(52): như các hạt thrombin/gelatin (Floseal),
keo fibrin (Tisseel), polyethylene glycol hydrogel (Coseal), keo cyanoacrylate
(Dermabond), Surgicel,.. Johnston(29) khuyên chỉ dùng keo fibrin nếu hệ bồn
đài thận chưa bị cắt mở, nếu hệ bồn đài thận đã bị cắt mở thì phải dùng kỹ thuật
khâu trên giá đỡ (sutured bolster).
Hình 6. Khâu chủ mô thận trên giá đỡ
Các dụng cụ cắt và cầm máu chủ mô thận khác như(52): dao siêu âm, dao đốt
điện lưỡng cực, tia argon (argon-beam coagulation), microwave tissue
coagulator (MTC), radiofrequency dissector (TissueLink), laser (KTP hay
YAG) trên động vật thực nghiệm…..
Tác giả Châu Quý Thuận (9) dùng kỹ thuật kiểm soát động mạch thận bằng
một nơ chỉ chromic được thắt cách quãng mỗi 5 phút kết hợp với mũi khâu chủ
động chủ mô thận bằng 2 sợi chỉ vicryl cài răng lược hình số 8 cách bờ bướu 2
cm.
Các kỹ thuật nội soi hỗ trợ khác
Bao gồm nội soi hỗ trợ bằng bàn tay (HALPN), hay robot (RALPN)
KẾT QUẢ
Cắt thận tận gốc qua nội soi
Kết quả sớm của phẫu thuật (36) (bướu tế bào thận - RCC)
Tác giả Số
bệnh
nhân
Đường
vào
Thời
gian
mổ
(phút)
Máu
mất
(mL)
Ngày
nằm
viện
Thương
tật
(%)
Kavoussi,
1993
8 Trong
PM
450 295 5,2 38
Gill, 1995 32 Trong
PM
- - - 34
McDougall,
1996
17 Trong
PM
414 211 4,5 36
Ono, 1997 11
14
Trong
PM
Sau
PM
360
294
397
285
11 27,2
14,2
Cadeddu,
1998
139
18
Trong
PM
Sau
PM
- - - 9,6
Barrett,
1998
72 Trong
PM
175 - 4,4 12,5
Cicco,
2001
50 Trong
PM
139 149,78 6,0 8
Hoàng, 31 Trong 139,5 60 5,1 6,5
2006 PM
Sau
PM
Kết quả lâu dài của phẫu thuật
Kết quả lâu dài của phẫu thuật cắt thận tận gốc qua nội soi ổ bụng cần đánh giá
về các mặt: kết quả gần, kết quả xa như: tái phát bướu tại chỗ, di căn ở vị trí đặt
trocar, tỉ lệ bệnh nhân sống sót không còn ung thư (disease-free survival).
Loạt 50 bệnh nhân của Cicco(10) và tổng kết của Portis(41) trên 5 nhóm bệnh
nhân với mỗi nhóm trên 50 bệnh nhân với thời gian theo dõi từ 13 -36 tháng
cho thấy tỉ lệ bệnh nhân sống sót không còn ung thư là 91-100% (cần biết là tỉ
lệ sống sót sau 5 năm đối với bướu chủ mô thận mổ hở là 94%), chỉ có 4/403
bệnh nhân có bướu tái phát tại chỗ và 1/403 bệnh nhân có bướu T3, grade IV
tái phát bướu ở vị trí đặt trocar sau mổ 25 tháng.
Caddedu(8), trong một nghiên cứu trên 157 bệnh nhân ở 5 trung tâm, thời gian
theo dõi 12 tháng, thấy rằng cắt thận tận gốc qua nội soi không làm tăng tỉ lệ tái
phát tại lỗ trocar cũng như tại vùng sau phúc mạc. Dunn(17) trên 60 bệnh nhân
mổ hở và 33 bệnh nhân mổ nội soi cũng có cùng nhận xét.
Ono(38,39) trong loạt 25 bệnh nhân với bướu < 5cm, thời gian theo dõi trung
bình 22 tháng (7-49) thấy không có hiện tượng di căn xa hay bướu tái phát tại
lỗ trocar. Trong một loạt lớn hơn với 149 bệnh nhân bưới < 5cm với 103 nội
soi và 46 mổ hở ông có kết quả: tỉ lệ không tái phát và sống sót sau 5 năm ở
nhóm mổ nội soi (theo dõi 29 tháng) là 95,1% và 95%, theo thứ tự ; tỉ lệ không
tái phát và sống sót sau 5 năm ở nhóm mổ hở (theo dõi 11-101 tháng) là 89,7%
và 95,6%. Ông kết luận cắt thận tận gốc qua nội soi có thể là một phẫu thuật
thay thế mổ hở trong bướu thận còn khu trú.
Hemal(26) trên 112 bệnh nhân bướu chủ mô thận T2 với 41 mổ nội soi và 71
mổ hở, với thời gian theo dõi 51,4 và 57,2 tháng (theo thứ tự) thấy tỉ lệ sống sót
sau 5 năm không khác nhau. Nhóm mổ nội soi không có bướu tái phát tại vùng
hay tại lỗ trocar.
Permpongkosol(40), trên 2 loạt bệnh nhân mổ hở (54 bệnh nhân) và mổ nội soi
(67 bệnh nhân) thấy sau 5 năm và 10 năm tỉ lệ sống sót không ung thư và tỉ lệ
sống sót chung không khác nhau, thời gian theo dõi trung bình là 73 tháng. Ông
kết luận phẫu thuật nội soi có kết quả ung thư học tương đương mổ hở đối với
bướu T1/2 N0M0 .
Cắt thận-niệu quản qua nội soi
Kết quả sớm của phẫu thuật(6)
Tác giả Ngã vào Khoanh
BQ
Số
BN
Thời gian
mổ (h)
Máu mất
(ml)
Conversion
%
Biến
chứng
Keeley và
Tolley
Trong
PM
CĐNS,
mổ hở
22 2,6 – 13.6 27
McNeill Trong
PM
CĐNS,
mổ hở
25 2,7 – 12 16
Shalhav Trong
PM
LS 25 7,7 189 0 40/8
Jarrett. Trong
PM
Mổ hở,LS 25 5,5 440 4 12/4
Gill Sau PM TUDL, LS 42 3,7 242 4,8 12
Matsui Sau PM Mổ hở, LS 17 4 151 – 12
Yoshino Sau PM LS 23 4,8 304 4,3 8,7
Stifelman HAT TUDL 22 4,5 180 0 4,5
Wong và
Leveillee
HAT TUE 14 – – –
Tác giả Ngã vào Khoanh
BQ
Số
BN
Thời gian
mổ (h)
Máu mất
(ml)
Conversion
%
Biến
chứng
Uozumi HAR Mổ hở 10 4,4 462 0 30/20
Kawauchi HAR,
Lồng
NQ,
TUE, mổ
hở
34 3,9 236 3 5,9/5,9
HAT, hand-assisted transperitoneal; HAR, hand-assisted retroperitoneal;
TUDL, transurethral detachment and ligation; TUE, transurethral excision.
Kết quả lâu dài của phẫu thuật
Còn cần thêm thời gian để kiểm chứng, hiện đang trong thời gian theo dõi
trung bình.
Bariol(4) báo cáo kết quả tương đương ở 2 nhóm mổ nối soi và mổ hở sau mổ 7
năm: tỉ lệ sống sót không có di căn sau 1 năm và 5 năm là 80% và 72% trong
mổ nội soi so với 87,2% và 82,1% trong mổ hở (p=0,33 và 0,26, theo thứ tự).
Tsujihata(48) trên 25 bệnh nhân cắt thận-niệu quản nội soi và 24 bệnh nhân mổ
hở thấy tỉ lệ sống sót không có ung thư tương đương ở cả 2 nhóm với thời gian
theo dõi trung bình là 22 tháng (p=0,8166).
Báo cáo của Rassweiler(42) với thời gian theo dõi 2 năm trên 8 bệnh nhân mổ
nội soi và 11 mổ hở cho thấy kết quả tương tự Tsujihata.
Cắt thận bán phần qua nội soi
Tác giả Số
BN
Kích
thước
bướu
Kiểm
soát
cuống
Khâu
đài bể
thận
(%)
Cầm máu Máu
mất
(ml)
Thời
gian
mổ
(giờ)
Nằm
viện
sau
mổ
Theo
dõi
(tháng)
Janetschek 25 1,9 Không 0 Lưỡng cực,
Argon, Keo
287 2,7 5,8 22,2
Kim 79 2,5 Có - Khâu giá đỡ 391 3,0 2,8 -
Rassweiler 53 2,3 - - Siêu âm,
Lưỡng cực,
Argon,
Nd:YAG
725 3,2 5,4 24
Gill 100 2,8 Có
(91)
64 Khâu giá đỡ 125 3,0 2,0 18
Guillonneau 28 1,9 Không 0 Lưỡng cực, 708 3,0 4,7 12,2
(12)
Có (16)
11 Siêu âm, Khâu
giá đỡ
270 2,0 4,7 1,2
Châu Quý
Thuận
2 4,0 Không
(1)
Có (1)
0 Khâu giá đỡ 75 2,6 4,5 -
Hoàng 2 3,2 Không 0 Clip nhánh
ĐM cực dưới,
Khâu giá đỡ
125 2,25 5 -
Kết quả lâu dài của phẫu thuật
Còn cần thêm thời gian để kiểm chứng
Allaf, 9/2004(3), trên 48 bệnh nhân với thời gian theo dõi 37,7 tháng có 46/48
bệnh nhân không có bướu tái phát (95,8%). Chỉ có 2 bệnh nhân tái phát (4,2%)
trong đó có 1 bệnh nhân tái phát sau 4 năm.
Báo cáo đầu tiên của bệnh viện Cleveland, 1/2007(31), trên 56 bệnh nhân sau
thời gian theo dõi 5,7 năm cho kết quả rất tốt so với mổ hở(18,27): không có di
căn xa (0%), một trường hợp tái phát tại chỗ (2,7%). Tỉ lệ sống sót chung và
sống sót không có ung thư sau 5 năm, theo thứ tự, là 86% và 100%.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt thận qua nội soi ổ bụng đã mang lại nhiều lợi ích của phẫu thuật
ít xâm hại ở bệnh nhân bướu ác thận so với mổ hở. Kết quả lâu dài về mặt ung
thư học – so với mổ hở- dần với thời gian theo dõi đủ dài của các tác giả, cho
thấy nó rất có thể thay thế hoàn toàn mổ hở trong thời điểm hiện tại và trong
tương lai gần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8_3207.pdf