Trước hết chúng ta bắt đầu bằng cách nhìn nhận nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực cơ bản, đó là Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực hoạt động kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất, cùng với những hoạt động trao đổi và phân phối vật chất có liên quan trực tiếp đến sản xuất. Lĩnh vực này bao gồm: (i) hoạt động của các ngành trực tiếp gắn với sản xuất vật chất, (ii) tất cả các hoạt động có liên quan trực tiếp với phân phối các tư liệu vật chất, bao gồm tất cả các hoạt động thương mại, hoạt động tiền tệ, vận tải, bảo quản kho tàng v.v, (iii) các công tác tổ chức và quản lý hoạt động kinh tế. Lĩnh vực hoạt động xã hội là những hoạt động trao đổi, phân phối, tiêu phí vật chất và phi vật chất có liên quan gián tiếp với kinh tế cùng với các hoạt động khác không có liên quan với hoạt động kinh tế. Các hoạt động chủ yếu của lĩnh vực xã hội là: (i) bảo đảm của xã hội đối với đời sống vật chất cho con người như bảo đảm việc làm, thu nhập, mức sống thực tế, tiêu phí sinh hoạt cùng với tình trạng của các ngành phục vụ cuộc sống của con người; (ii) bảo đảm đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội, bao gồm: Học tập, nghiên cứu, vui chơi, luyện tập thể dục, thẩm mỹ; (iii) quản lý các hoạt động xã hội, liên quan đến hai nội dung: một mặt là sự bảo đảm của xã hội đối với cá nhân như bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, mặt khác là việc xã hội tham gia hoạt động quản lý như quản lý hành chính nhà nước, trị an xã hội, an ninh phòng vệ quốc gia, v.v.
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Phát triển kinh tế: từ lý luận đến thực tiễn và sự lựa chọn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT TRIỂN KINH TẾ: TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM
PGS,TS Ngô Thắng Lợi
Trường Bộ môn Kinh tế phát triển
Đại học Kinh tế Quốc dân – Hà Nội
1. NỘI HÀM CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1 Các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế
Trước hết chúng ta bắt đầu bằng cách nhìn nhận nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực cơ bản, đó là Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực hoạt động kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất, cùng với những hoạt động trao đổi và phân phối vật chất có liên quan trực tiếp đến sản xuất. Lĩnh vực này bao gồm: (i) hoạt động của các ngành trực tiếp gắn với sản xuất vật chất, (ii) tất cả các hoạt động có liên quan trực tiếp với phân phối các tư liệu vật chất, bao gồm tất cả các hoạt động thương mại, hoạt động tiền tệ, vận tải, bảo quản kho tàng v.v, (iii) các công tác tổ chức và quản lý hoạt động kinh tế. Lĩnh vực hoạt động xã hội là những hoạt động trao đổi, phân phối, tiêu phí vật chất và phi vật chất có liên quan gián tiếp với kinh tế cùng với các hoạt động khác không có liên quan với hoạt động kinh tế. Các hoạt động chủ yếu của lĩnh vực xã hội là: (i) bảo đảm của xã hội đối với đời sống vật chất cho con người như bảo đảm việc làm, thu nhập, mức sống thực tế, tiêu phí sinh hoạt cùng với tình trạng của các ngành phục vụ cuộc sống của con người; (ii) bảo đảm đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội, bao gồm: Học tập, nghiên cứu, vui chơi, luyện tập thể dục, thẩm mỹ; (iii) quản lý các hoạt động xã hội, liên quan đến hai nội dung: một mặt là sự bảo đảm của xã hội đối với cá nhân như bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, mặt khác là việc xã hội tham gia hoạt động quản lý như quản lý hành chính nhà nước, trị an xã hội, an ninh phòng vệ quốc gia, v.v..
1.2 Nội hàm của phát triển kinh tế
Theo logic trên, khi nói đến một xã hội phát triển, chúng ta thường hình dung ra một xã hội, ở đó mọi người được ăn ngon, mặc đẹp, có khả năng chủ động trong việc tiếp cận các loại tài sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giải trí sang trọng, được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh; mặt khác, chúng ta cũng nghĩ tới một xã hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công bằng cần thiết. Một yêu cầu tối thiểu của một quốc gia phát triển đó là chất lượng cuộc sống vật chất của quốc gia đó phải cao và được phân phối một cách đồng đều thay vì chỉ giới hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giầu có trong xã hội. Cao hơn yêu cầu tối thiểu đó, một quốc gia phát triển còn đề cập đến các quyền và sự tự do của con người về mặt chính trị, sự phát triển về văn hoá và tri thức, sự bền vững của gia đình v.v. Như vậy, một mức sống vật chất cao (kết quả hoạt động của lĩnh vực kinh tế) và có thể được tiếp cận một cách công bằng (là kết quả của hoạt động xã hội) là điều kiện tiên quyết cho hầu hết các khía cạnh khác của sự phát triển kinh tế.
Những phân tích trên đây cho chúng ta đi đến một khái niệm tổng quát nhất về phát triển nền kinh tế, đó là quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Khái niệm tưởng chừng như đơn giản nêu trên chứa đựng một nội hàm khá phức tạp, về lý thuyết cần phải hiểu theo những khía cạnh khác nhau:
Theo góc độ nội dung, phát triển kinh tế phải là một quá trình diễn ra đồng thời giữa phát trỉển lĩnh vực kinh tế và phát triển lĩnh vực xã hội của của mỗi quốc gia. Sự phát triển về mặt kinh tế được thể hiện sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế, mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người (sự tăng trưởng kinh tế) và sự biến đổi cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng ngày càng hiện đại. Sự phát triển xã hội thể hiện khả năng mở rộng năng lực phát triển toàn diện cho con người và việc sử dụng năng lực đó để khai thác các cơ hội của cuộc sống.
Theo logic biện chứng của quá trình phát triển, phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm nghĩa sự gia tăng về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế còn sự thay đổi về chất bao gồm quá trình thay đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế) và sự tiến bộ xã hội.
Đến đây chúng ta có thể phác hoạ ra công thức phát triển kinh tế:
Phát triển KT = Tăng trưởng KT + Chuyển dịch CCKT + Tiến bộ XH
Mỗi bộ phận trong công thức trên chính là những mục tiêu của quá trình phát triển và có vai trò khác nhau trong quá trình thực hiện sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của phát triển. Tuy vậy một quốc gia có tăng trưởng kinh tế nhanh chưa chắc đã có sự tiến bộ xã hội. Điều đó có nghĩa là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng không đủ để có sự phát triển. Trình độ của cơ cấu ngành kinh tế thể hiện bản chất của sự phát triển, là dấu hiệu để đánh giá các giai đoạn phát triển kinh tế. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là sự tiến bộ xã hội cho con người, cụ thể là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân, v.v.. Hoàn thiện sự tiến bộ xã hội là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển mà mỗi quốc gia đều.
Phát triển với bản chất nêu trên phải là một quá trình lâu dài, diễn ra theo các nấc thang tuần tự và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Trong cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" (the stages of Economic Growth) (1961) của Walter W. Rostow, một nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng, đã đưa ra một cách tổng hợp theo lịch sử về những bước (giai đoạn) tuần tự mà mỗi quốc gia phải trải qua trong quá trình phát triển. Theo ông, quá trình phát triển kinh tế trải qua lần lượt 5 giai đoạn: nền kinh tế truyền thống – giai đoạn chuẩn bị cất cánh – giai đoạn cất cánh – giai doạn trưởng thành – và cuối cùng là giai xã hội tiêu dùng. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi cơ cấu ngành kinh tế, tỷ lệ tích luỹ, những đặc trưng của sự phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế, xã hội. Hiện nay cũng có nhiều ý kiến bình luận và phê phán về những khía cạnh không còn phù hợp của 5 giai đoạn trong lý thuyết của Rostow, tuy nhiên, chúng ta vẫn cần nhấn mạnh đến sự vận dụng lý thuyết này trên một số khía cạnh khá hợp lý như sau:
(1) Trong các giai đoạn phát triển, giai đoạn cất cánh được Rostow coi là giai đoạn then chốt. Điều kiện để giai đoạn cất cánh xuất hiện là: Tỷ lệ đầu tư chiếm trong tổng thu nhập quốc dân thuần tuý là 20%; phải có ngành công nghiệp mũi nhọn tạo nên tác động dây chuyền đến sự phát triển các ngành kinh tế khác; phải có thể chế chính trị - xã hội phù hợp đảm bảo thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế hiện đại, mở rộng kinh tế đối ngoại và huy động mạnh mẽ nguồn vốn trong nước. Các điều kiện của giai đoạn cất cánh có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách của các nước đang phát triển như: tăng tỷ lệ đầu tư, hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn và cải cách hệ thống thể chế.
(2) Các quốc gia đang phát triển phải tuần tự thực hiện các giai đoạn của sự phát triển, phải qua giai đoạn chuẩn bị cất cánh mới có thể chuyển sang giai đoạn cất cánh, bởi vì ở các nước đang phát triển, những điều kiện để chuyển ngay sang giai đoạn cất cánh là thực sự khó khăn, đó là: sự hạn chế về nguồn vốn tích luỹ nội bộ và khả năng tiếp nhận, chuyển giao nguồn vốn nước ngoài; năng lực bộ máy quản lý kinh tế còn yếu kém và sự tồn tại khá phổ biến tệ nạn tham những, quan liêu và trình độ chuyên môn cũng như văn hoá rất thấp.
(3) Trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ hơn, các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời gian thực hiện mỗi giai đoạn phát triển thông qua việc sử dụng sự liên kết kinh tế với các nước phát triển và sử dụng nguồn lực kinh tế sẵn có của các nước này trong quá trình trao đổi thương mại và hợp tác quốc tế.
2. LỰA CHỌN CÁC MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TRÊN THỰC TẾ
Trải qua thời gian, lý luận về phát triển kinh tế, đặc biệt là xem xét nội hàm của nó ngày càng được hoàn thiện và đi đến thống nhất như nói ở trên. Tuy vậy, trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, các nước đã sử dụng nhiều cách đi khác nhau, nội dung trọng tâm của quá trình lựa chọn và hình thành mô hình phát triển của mỗi nước là quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa mặt kinh tế (tăng trưởng) và mặt xã hội (tiến bộ và công bằng xã hội) trong quá trình phát triển. Nhiều nước, quá trình lựa chọn con đường phát triển đã đồng nhất một cách ngây thơ giữa phát triển kinh tế với tăng trưởng kinh tế, và tìm mọi cách để giải quyết bài toán tăng trưởng kinh tế nhanh. Có những nước thì lại qua nhấn mạnh đến giải quyết công bằng xã hội và xem đó là tất cả những gì gọi là phát triển v.v...Các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã đúc kết thành những mô hình cụ thể, mỗi mô hình có những đặc trưng riêng, và có những kết cục tất yếu của nó.
2.1 Mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau.
Đây là mô hình được sử dụng trong lịch sử phát triển của các nước thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa trước đây (gọi là thế giới thứ 2), như: Liên Xô cũ, các nước XHCN Đông Âu, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam, v.v.... Ý tưởng chung của mô hình là coi các chính sách tạo sự công bằng xã hội là điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh tế, tăng trưởng còn ở tình trạng rất thấp và xem như đó là điều kiện, là điểm mấu chốt để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo mô hình này, quá trình phát triển phải được bắt đầu bằng sự kiện “tước đoạt của những kẻ đã đi tước đoạt” thông qua chính sách cải cách ruộng đất và đánh tư sản. Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá tài sản, nguồn lực được phân phối lại cho các đơn vị kinh tế dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Phân phối theo lao động là hình thức phân phối cơ bản nhất, được thực hiện theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao dộng không làm không hưởng”
Thực tế phát triển của các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây đã phản ánh khá rõ nét những hiệu ứng tích cực của mô hình. Thứ nhất, tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được giải quyết nhanh chóng ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Ở Liên xô cũ, năm 1967, tỷ lệ thu nhập của 20% dân số nghèo nhất đã đạt tới 10,4%; trong khi đó 20% dân số có mức thu nhập cao nhất chỉ chiếm có 19,9%. Các con số tương ứng của Mỹ vào thời điểm này là 5,5% và 38,6%; Canada là 6,2% và 37,8%; Pháp là 5,8% và 31,8%; Hệ số GINI vào thập niên 1970 ở Liên xô đã đạt được giá trị 0,23, Tiệp khắc là 0,21, Hungari và Ba lan là 0,24, trong khi đó vào thời điểm này, hệ số GINI của Mỹ và Canada là 0,34 và 0,35. (Nguồn: các hệ thống kinh tế so sánh, Paul R. Gregory, 1998). Thứ hai, Sau khi đã thiết lập được hệ thống sở hữu toàn dân về tài sản và chế độ phân phối theo lao động, một khí thế mới của tinh thần làm chủ tập thể, sự phân phối thu nhập công bằng và một kiểu quản lý mới đã tạo nên một sự khởi sắc nhất định trong nền kinh tế, hiệu quả kinh tế và tốc độ tăng trưởng cũng khá ổn định và có phần cao hơn các nước Tư bản chủ nghĩa. Giai đoạn 1950-1960, tốc độ tăng trưởng GDP/năm của Liên xô và Đông Âu đạt 4,7%; giai đoạn 1970-1975 đạt 4,3% trong khi đó các nước Tư bản chủ nghĩa, chỉ đạt tương ứng là 3,7% và 2,5%. Tuy vậy, những bất cập của mô hình này cũng đã được tổng kết qua thực tế:(i) Một nền kinh tế được bảo đảm bằng chế độ sở hữu nhà nước và sản xuất không vì mục tiêu lợi nhuận, về lâu dài đã làm kìm hãm động lực nâng cao hiệu quả và tăng trưởng kinh tế; (ii) Một chế độ phân phối thu nhập chỉ dựa trên cơ sở lao động, đã không khuyến khích việc huy động triệt để các yếu tố nguồn lực khác trong dân cư và các đơn vị kinh tế vào hoạt động kinh tế, tạo ra của cải; (iii) Kết hợp cả hai vấn đề trên, về lâu dài, hình thức phân phối công bằng trên cơ sở xã hội không có động lực phát triển đã trở thành một cơ chế phân phối lao động theo kiểu cào bằng đối với người lao động. Trong khi đó những người đại diện cho nhà nước quản lý khối lượng tài sản khá lớn tại các đơn vị kinh tế cũng không quan tâm đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Hậu quả xấu tất yếu nảy sinh, đó là: tăng trưởng và hiệu quả kinh tế có xu hướng giảm đi, những tệ nạn quan liêu, cửa quyền xuất hiện ngày càng nhiều, và “tự nhiên” xuất hiện hình thức phân phối không chính thức nhưng lại chi phối khá lớn đến thu nhập, đó là “phân phối theo quyền lực”, làm cho sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập lại trở nên gia tăng hơn. Chúng ta có thể thấy điều đó qua bảng số liệu minh hoạ dưới đây.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Liên xô và một số nước ĐôngÂu
Nước
Tốc độ tăng
GDP(%)
1960 1985
Tốc độ tăng NSLĐ(%)
1960 1985
Tốc độ tăng NS vốn(%)
1960 1985
Tốc độ tăng TFP (%)
1960 1985
Liên xô
5,8 3,6
4,6 2,3
3,6 -3,7
2,4 0,8
Tiệp khắc
4,8 2,6
4,1 1,6
1,3 -2,1
3,4 0,5
Ba Lan
4,6 3,3
3,6 1,8
2,0 -1,4
3,2 0,8
Hungari
4,6 2,9
3,6 2,6
1,0 -2,1
2,9 1,2
LX và Đông Âu
5,5 3,0
4,8 2,5
1,0 -2,1
3,5 0,9
Nguồn: các hệ thống kinh tế so sánh, Paul R. Gregory, 1998
2.2. Mô hình tăng trưởng trước, công bằng xã hội sau ( kiểu chữ U ngược)
Đây là mô hình được khởi nguồn áp dụng ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và phương tây, các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp theo đó là sự lựa chọn của phần lớn các nước khu vực Nam Mỹ như Braxin, Mehico, VeneZuela. Khu vực đông Nam Á có một số nước như Hồng Kông, hay cả Malaysia, Philipines cũng đi theo mô hình này. Sự lựa chọn này phù hợp với giả thuyết mà Simon Kuznets (đưa ra vào năm 1955- khi ông là Chủ tịch Hội đồng kinh tế Mỹ) về mối quan hệ giữa tăng trưởng (phản ánh qua chỉ số GDP/người) và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (phản ánh qua chỉ số GINI) theo dạng chũa U ngược. Các nghiên cứu thực nghiệm trong vòng 20 năm từ 1962 đến 1985 của chính Kuznets và Oshima ở khoảng 70 nước trên thế giới và một số công trình nghiên cứu khác nữa cũng vẫn khẳng định tính đúng đắn cho giả thuyết chữ U ngược (hình dưới).
Hình 1: Mô hình chữ U ngược
-
-
-
-
-
-
0,6
0,5
0,4
0,3
0,2
GINI
GDP/người
Theo mô hình này, các nước thường không quan tâm đến phân phối lại thu nhập trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.Vì vậy, trong giai đoạn này, cùng với quá việc đạt được các thành tựu về tăng trưởng (thu nhập bình quân đầu người tăng lên) thì sự bất bình đẳng có xu hướng tăng lên, kết quả của tăng trưởng sẽ dồn vào một số nhóm người trước. Chỉ khi nền kinh tế đã đạt được một mức độ khởi sắc đáng kể, thu nhập bình quân đầu người cao, lúc đó sự bất bình đẳng mới có xu hướng giảm dần cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế do chính phủ bắt đầu quan tâm đến các chính sách phân phối lại thu nhập làm cho kết quả của tăng trưởng được “thẩm thấu” một cách rộng rãi hơn.
Nếu như Kuznets và một số nhà nghiên cứu khác chỉ dựa trên các kết quả thực nghiệm để mô tả mô hình dạng chữ U ngược mà các nước lựa chọn thì A. Lewis, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Zamaica, trong phân tích mô hình lao động dư thừa ( mô hình hai khu vực cổ điển) cũng trong khoảng thời gian nghiên cứu của Kuznets (1955) đã có sự giải thích hay minh hoạ cho cơ chế kết hợp tăng trưởng với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập theo kiểu chữ U ngược, và đây cũng được xem như chính là phương thức phát triển mà các nước đi theo mô hình này lựa chọn. Trong giai đoạn đầu, khu vực nông nghiệp không được đầu tư vì đang nằm trong tình trạng dư thừa lao động, thu nhập của khu vực này gần như không đổi và người lao động ở đây hưởng mức tiền công đủ sống . Trong khi đó khu vực công nghiệp và dịch vụ là địa chỉ đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả nhất. Tăng trưởng kinh tế là kết quả của sự gia tăng tích luỹ của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trước hết chính là giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, do quy mô thu nhập của khu vực công nghiệp ngày càng lớn trong khi khu vực nông nghiệp lại đang “trì trệ tuyệt đối”. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn xuất phát từ một thái cực khác, đó là giữa ông chủ (người sở hữu tài sản) và người lao động trong khu vực công nghiệp. Trong khi đầu tư vào khu vực công nghiệp ngày càng lớn làm cho lợi nhuận tăng lên và thu nhập của những nhà sở hữu vốn trong công nghiệp ngày cang lớn, thì thu nhập của người lao động ở khu vực này vẫn không thay đổi, do đây là những người lao động được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang (đều đang hưởng mức tiền công tối thiểu ở khu vực nông nghiệp) và họ chỉ được trả cùng một mức tiền công như nhau khi chuyển sang làm việc cho khu vực công nghiệp. Như vậy các nước lựa chọn mô hình tăng trưởng trước, phân phối lại sau, thì sự bất bình đẳng không chỉ là hệ quả của tăng trưởng nhanh mà còn là nguyên nhân của sự tăng trưởng nhanh. Khuynh hướng làm tăng sự bất bình đẳng cuối cùng sẽ bị đẩy lùi khi khu vực nông nghiệp không còn dư thừa lao động, lúc đó: (i) mức tiền công trả cho người lao động chuyển từ khu vực nông nghiệp sang làm việc cho khu vực công nghiệp sẽ phải tăng lên (ngày càng cao) theo sự khan hiếm lao động; (ii) Phần lợi nhuận khu vực công nghiệp đạt được sau mỗi chu kỳ phải dành một phần để đầu tư lại cho nông nghiệp, nhằm khắc phục hiện tượng giảm quy mô sản lượng của khu vực nông nghiệp do thiếu hụt lao động. Như vậy trong giai đoạn sau của quá trình phát triển, bất bình đẳng ngày càng giảm đi và sự nghèo khó cũng sẽ bị đẩy lùi.
Kết quả đạt được của mô hình này nhìn chung cũng đúng với ý muốn của những người thiết kế ra nó. Thành tựu nổi bật không thể phủ nhận được đối với các nước này là tốc độ tăng trưởng và mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên khá nhanh. Tuy vậy, tại đây, bất bình đẳng, phân hoá xã hội và sự nghèo đói kéo dài, thậm chí rất khó cải thiện kể cả khi thu nhập đã đạt đến một mức rất cao. Trừ các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện nay đã đạt mức công bằng cao trong phân phối thu nhập như Pháp, Anh, Nhật, Úc, Canada v.v.. đang có xu hướng hoàn thiện và đạt được những kết quả nhất định trong sự công bằng xã hội, còn phần lớn các nước theo mô hình này hiện nay vẫn có sự bất bình đẳng cao vào hạng nhất thế giới (xem bảng dưới). Chính những bất bình đẳng ấy trở nên là một rào cản cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những giai đoạn gần đây.
Bảng 2: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước Nam mỹ và Đông Á
Nước
GDP/người
($ - PPP)
GINI Thu nhập
GINI đất đai
% thu nhập của 20% dân số nghèo nhất
Achentina
12 460
0,51
0,83
3,2
Braxin
8 020
0,62
0,85
2,6
Vênezuela
5 760
0,47
0,88
4,7
Philipines
4 890
0,46
0,86
4,5
Malaysia
9 630
0,51
0,72
4,4
Nam Phi
10 960
0,58
0,77
3,5
Mexico
9 590
0,51
0,78
4,3
Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007
2.3 Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời (phát triển toàn diện)
Đã có nhiều nước, trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mình lựa chọn một mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập và đã dành được sự thành công đáng kể. Trong số các nước đó phải kể đến là các nước phát triển ở khu vực Bắc Âu như Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Na uy, Phần Lan, đan mạch; Đức; và một số nước khu vực Đông Á, từ những quốc gia nghèo nhất thế giới vào thập niên 1950,1960 đã nhanh chóng trở thành NIC cũng bằng chính sự lựa chọn mô hình này – đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Một nét đặc trưng của mô hình này là, trong quá trình phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội. Quá trình tăng trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. Kết quả tăng trưỏng nhanh góp phần cải thiện mức độ công bằng, hoặc là không làm gia tăng bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng nhưng ở một mức độ thấp cho phép.
Nội dung chính của mô hình này được thể hiện rất rõ nét qua những chính sách can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự phát triển đồng bộ của cả hai yếu tố này. Một là, chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh, thông qua việc lựa chọn các mô hình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Mô hình mà Hàn Quốc và Đài Loan sử dụng khá thành công là mô hình công nghiệp hoá hướng ngoại nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong những lĩnh vực cần thiết. Hai là, chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất bình đẳng. Kể cả Đức và các nước Bắc Âu, đến Hàn Quốc và Đài Loan đều bắt đầu quá trình thực hiện tăng trưởng nhanh bằng phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sản xuất sản phẩm nhiều lao động và các nguồn lực dự trữ ở khu vực nông thôn, quan tâm đặc biệt đến vấn đề mở rộng quy mô, đa dạng hoá sản xuất và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Sau đó sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước và theo hướng phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Sự lựa chọn này vừa đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn dịnh vừa không có nguy cơ gây bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Sự lựa chọn này phù hợp với quan điểm của nhà kinh tế học người Nhật Bản là H. Oshima tổng kết trong cuốn “Tăng trưởng kinh tế ở các nước chau Á gió mùa”. Theo mô hình này, nền kinh tế bắt đầu thời kỳ tăng trưởng nhanh bằng đầu tư cho nông nghiệp, kế theo đó là phát triển với nông nghiệp với công nghiệp và cuối cùng là đầu tư theo chiều sâu cho toàn bộ nền kinh tế khi hiện tượng thiếu lao động và giá cả lao động trở nên ngày càng đắt đỏ. Đây cũng là mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó không sản sinh ra nguyên nhân kinh tế gây sự bất bình đẳng và công bằng xã hội. Thứ ba, chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách về phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đường xá, giao thông cho các vùng khó khăn v.v.... Hệ thống giáo dục bảo đảm cho tất cả trẻ em có trình độ phổ cập giáo dục ngày càng được nâng cao, nạng lưới y tế chăm sóc sưc khoẻ được tổ chức chu đáo. Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện sống có giá trị ngang nhau ở tất cả các thành phần lãnh thổ trong cả nước.
Các nước lựa chọn mô hình nhấn mạnh đồng thời phân phối lại với tăng trưởng kinh tế thường đạt được những thành tựu đáng nói kể cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội (xem bảng dưới).
Bảng 3: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước áp dụng m ô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh t ế
Tên nước
GDP/người ($ - PPP)
Hệ số GINI
Thu nhập của 20%dân số nghèo nhất (%)
Đan mạch
35 570
0,27
10,3
Phần lan
31 170
0,25
9,6
ThuỵDiển
37 080
0,25
9,1
Na uy
40 420
0,27
9,6
Đức
29 290
0,28
8,5
Hàn Quốc
21 850
0,29
9,7
Đài Loan
23 210
0,24
9,8
Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007
Nếu so sánh các số liệu từ hai bảng số trên chúng ta có thể thấy được khá rõ sự khác biệt trong kết quả về công bằng xã hội giữa hai mô hình lựa chọn khác nhau về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong số các nước trở thành NIC vào thập niên 1980 là Đài Loan, Hàn quốc, Braxin, Mexico, Achentina đều có sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào thập niên 1960,1970 thì nước Hàn Quốc, Đài Loan không những đạt được các chỉ số công bằng xã hội cao hơn nhiều so với các nước còn lại, thậm chí ngang với các nước công nghiệp phát triển, mà mức thu nhập bình quân đầu người phản ánh sự tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn hẳn các nước này. Điều đó trên một mức độ nhất định phản ánh ưu điểm của mô hình mà họ đã lựa chọn.
3. LỰA CHỌN MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Mô hình phát triển toàn diện – sự lựa chọn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới kinh tế
Mặc dù Việt Nam đã dành được những thành tựu nhất định trong nhiều lĩnh vực từ thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tuy vậy, bước vào thời kỳ chiến lược 2001-2010, chúng ta vẫn bị đánh giá là có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nếu so sánh với sự phát triển vượt trội của các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình quân trên đầu người của Việt nam ngày càng xa so với họ. Vì vậy, yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đã trở thành bức xúc, hàng đầu để thực hiện mục tiêu phát triển. Thực hiện tăng trưởng nhanh mới có thể kéo nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo, kém phát triển, và chống tụt hậu xa hơn, thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh. Hơn thế nữa, thế kỷ 21, tình hình về kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi, mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng rộng rãi đã cho phép chúng ta có thể sử dụng được những lợi thế của các nước đi sau để khắc phục những rào cản thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua như sự thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu lao động tay nghề và thiếu thị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lua_chon_con_duong_phat_trien_2626.doc