Khái niệm về ''Du lịch sinh thái'' (Ecotourism), với tư cách là một loại
hình/một sản phẩm du lịch cụ thể, đã xuất hiện từ khá lâu trong các nghiên cứu về
du lịch và gần đây là trong các ấn phẩm quảng cáo về du lịch ở các quy mô khác
nhau từ quốc gia, địa phương đến doanh nghiệp. Từ khi xuất hiện khái niệm này vào
những năm 1970, du lịch sinh thái (DLST) đã thu hút được sự quan tâm không chỉ
của các nhà nghiên cứu mà còn của các doanh nghiệp du lịch, các nhà quản lý về du
lịch và của khách du lịch. Tuy nhiên nhận thức về du lịch sinh thái còn có sự chưa
thống nhất, theo đó đối với nhiều người DLST được hiểu đơn giản là sự kết hợp
giữa ý nghĩa của 2 từ ghép ''Du lịch'' và ''Sinh thái'' hoặc được hiểu là du lịch gắn
với thiên nhiên vốn đã xuất hiện từ đầu những năm 1800 (Ashton, 1993). Với khái
niệm này mọi hoạt động du lịch gắn với thiên nhiên như du lịch tham quan thắng
cảnh, du lịch tắm biển, du lịch nghỉ dưỡng,v.v. đều được hiểu là DLST.
10 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 698 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảo sát xây
dựng chương trình tour, đánh giá “cung - cầu”, v.v. để xây dựng sản phẩm DLST
phù hợp với xu thế hướng tới du lịch “xanh” đã tiến hành việc “sao chép” sản phẩm
du lịch của các công ty khác. Đây là tình trạng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam
trong phát triển sản phẩm du lịch nói chung, sản phẩm DLST nói riêng. Tình trạng
này cũng là phổ biến đối với việc xây dựng các chương trình DLST tại những điểm
Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu”
Hà Nội, ngày12/11/2015
8
đến du lịch tự nhiên nổi tiếng ở Việt Nam như Hạ Long, Cát Bà, Tràng An, Phong
Nha - Kẻ Bàng, Côn Đảo, v.v.
- Phát triển sản phẩm DLST chưa đúng với bản chất do sự thiếu hiểu biết của
các nhà đầu tư. Thể hiện điển hình nhất của tình trạng này là việc phát triển các sản
phẩm “du lịch sinh thái” - loại sản phẩm du lịch được xem là “xanh” điển hình, theo
đó phần lớn các sản phẩm DLST hiện nay ở Việt Nam đều không đúng với bản chất
của loại hình du lịch này. Việc thiếu nội dung về “giáo dục môi trường”; “có sự
đóng góp cho nỗ lực bảo tồn”; và “có sự tham gia tích cực của cộng đồng” trong cấu
thành sản phẩm DLST được xem là phổ biến trong phát triển DLST ở các điểm đến
tiềm năng ở Việt Nam. Kết quả của tình trạng này đã ảnh hưởng đến “hình ảnh” về
sản phẩm DLST của Việt Nam. Trong nhiều trường hợp điều này đã làm thất vọng
đối với những gì mà khách DLST kỳ vọng ở du lịch Việt Nam nơi có sự đa dạng về
sinh cảnh với tính đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm có
giá trị toàn cầu.
Thực trạng chung về phát triển DLST trên đây ở Việt Nam, đặc biệt là sự
thiếu vắng những sản phẩm DLST đặc thù đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến
khả năng cạnh tranh, tính hấp dẫn du lịch của điểm đến du lịch Việt Nam, trong đó
yếu tố “sản phẩm DLST” được xem là yếu tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nếu
không nói là quyết định.
Tình trạng phát triển trên về DLST cũng thể hiện đóng góp còn rất hạn chế
của DLST vào nỗ lực chung ứng phó với tác động của BĐKH ở Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, tuy nhiên một trong những nguyên
nhân cơ bản là nhận thức xã hội, đặc biệt nhận thức của các nhà quản lý, về tầm
quan trọng của phát triển DLST đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của du lịch
Việt Nam và góp phần vào ứng phó với BĐKH cũng như như năng lực tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chiến lược này còn nhiều hạn chế.
3. Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển DLST góp phần ứng phó với
BĐKH ở Việt Nam
Căn cứ vào những vấn đề mang tính lý luận và thực trạng phát triển DLST ở
Việt Nam thời gian qua, một số giải pháp cơ bản cần được xem xét thực hiện bao
gồm:
- Cần nâng cao nhận thức xã hội, trước hết là nhận thức của các nhà quản lý
các cấp, về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển DLST, nhất là các sản
phẩm DLST đặc thù, nhằm góp phần nâng cao sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập hiện nay và góp phần tích cực vào nỗ lực ứng phó với
Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu”
Hà Nội, ngày12/11/2015
9
BĐKH ở Việt Nam. Nhận thức này cần được chuyển hóa thành hành động cụ thể
trong hoạt động tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch, trong thẩm định các dự án
đầu tư phát triển sản phẩm DLST ở các cấp, từ địa phương đến vùng và quốc gia.
- Dù có thể đã muộn, tuy nhiên rất cần phải xây dựng đề án về “Chiến lược
phát triển du lịch sinh thái Việt Nam” nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược của du lịch Việt nam đồng thời góp phần tích cực thực hiện Chương trình
Nghị sự 21 của Việt nam và nỗ lực ứng phó với BĐKH ở Việt Nam.
- Trên cơ sở định hướng chiến lược về phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam
đã được xác định trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, cần tổ chức xây dựng một số chương trình hành động cụ thể
phát triển các sản phẩm “Du lịch xanh” đặc thù với nòng cốt là DLST cho từng địa
phương và từng vùng du lịch ở Việt Nam.
Những Chương trình này cần được xây dựng trên cơ sở những nghiên cứu cơ
bản có định hướng về tài nguyên du lịch tự nhiên đặc thù của địa phương/vùng;
khuyến khích và tăng cường tính “xanh” trong phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch và trong các dịch vụ du lịch với những điều kiện cụ thể ở cấp địa phương và cấp
vùng. Ở đây cần đặc biệt chú trọng đối với việc khai thác các giá trị di sản văn hóa
truyền thống; các tri thức bản địa trong phát triển DLST ở Việt Nam.
- Để có được hướng dẫn cụ thể đối với việc thực hiện các Chương trình hành
động trên đối với các nhà quản lý, các nhà đầu tư, cần thiết phải có được đánh giá
toàn diện có tính hệ thống về hệ thống các sản phẩm DLST, đặc biệt là các sản phẩm
du lịch đặc thù. Trên cơ sở những đánh giá này mới có thể xác định được sản phẩm
du lịch nào cần được “nâng cấp” hoàn thiện theo đúng nguyên tắc của DLST và sản
phẩm DLST đích thực nào cần được phát triển mới.
- Cần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và hướng dẫn đối với các dự
án đầu tư phát triển DLST, đặc biệt là phát triển sản phẩm DLST ở các khu di sản
thiên nhiên, các khu dự trữ sinh quyển, các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên thông qua
việc xây dựng các tiêu chí và đưa vào áp dụng trong thực tiễn; đẩy mạnh công tác
quy hoạch, quản lý quy hoạch và thẩm định các dự án đầu tư của các cơ quan quản
lý, tư vấn du lịch. Ở đây vấn đề nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý và tư vấn du
lịch cần được đặt ra một cách nghiêm túc. Thực tế cho thấy năng lực của đội ngũ cán
bộ trực tiếp quản lý và tư vấn các dự án phát triển du lịch nói chung, phát triển
DLST nói riêng ở Việt Nam còn rất hạn chế. Tình trạng này đã và đang là một trong
những nguyên nhân của những hạn chế đối với phát triển DLST ở Việt Nam như đã
được đề cập ở trên.
Hội thảo “Môi trường và phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu”
Hà Nội, ngày12/11/2015
10
- Cơ chế phân cấp xét duyệt các dự án đầu tư phát triển du lịch hiện nay đã
tạo điều kiện để các địa phương chủ động, đẩy nhanh quá trình đầu tư phát triển du
lịch nói chung, phát triển các sản phẩm DLST nói riêng. Tuy nhiên trong điều kiện
hiện nay, khi năng lực thẩm định của các địa phương nhìn chung còn hạn chế, vì vậy
đòi hỏi cần có sự hợp tác liên kết, tham vấn với các cơ quan quản lý, tư vấn vùng và
trung ương đối với những dự án phát triển DLST nói chung và phát triển sản phẩm
DLST có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với những khu vực nhạy cảm về môi
trường sinh thái. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các địa phương nằm trên các
địa bàn trọng điểm phát triển du lịch đã được xác định trong Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- Tăng cường hoạt động bảo vệ môi trường du lịch với việc nâng cao năng
lực và hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch;
nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển du
lịch “Du lịch xanh” với nòng cốt là DLST với sự tham gia tích cực của cộng đồng
địa phương.
Việc thực hiện một số giải pháp cơ bản trên đây sẽ góp phần tích cực vào
phát triển DLST, đặc biệt là quá trình hình thành hệ thống các sản phẩm DLST đặc
thù, góp phần tích cực vào nỗ lực bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH ở Việt
Nam cũng như tạo ra sự khác biệt, nâng cao tính hấp dẫn, khả năng cạnh tranh
chung của du lịch Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Phạm Trung Lương, nnk.
“Du lịch sinh thái: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
“Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030”.
Hà Nội, 2011
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Báo cáo “Đánh giá tác động và kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu đến lĩnh vực
du lịch”. Đề án “Xây dựng kế hoạch ứng phó với BĐKH của Bộ VHTTDL”.
Hà Nội, 2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pham_trung_luong_4989.pdf