Bài viết này trình bày quan điểm của OECD và Việt Nam về nhiệm vụ
chuẩn bị cho các học sinh sẽ tốt nghiệp phổ thông sau năm 2030. Những học sinh
này phải được trang bị những phẩm chất và năng lực phù hợp để bước vào cuộc
sống đang thay đổi nhanh chóng. Việc hình thành những phẩm chất và năng lực
này cần được các giáo viên và các nhà quản lý trường học đưa vào các chương
trình giáo dục.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 16/05/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phát triển đội ngũ giáo viên cho giáo dục 2030, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triỂn đỘi ngŨ giáo viên Cho giáo dụC 2030
ThS.NCS. Mai Quang Huy1
Tóm tắt: Bài viết này trình bày quan điểm của OECD và Việt Nam về nhiệm vụ
chuẩn bị cho các học sinh sẽ tốt nghiệp phổ thông sau năm 2030. Những học sinh
này phải được trang bị những phẩm chất và năng lực phù hợp để bước vào cuộc
sống đang thay đổi nhanh chóng. Việc hình thành những phẩm chất và năng lực
này cần được các giáo viên và các nhà quản lý trường học đưa vào các chương
trình giáo dục.
Từ khóa: OECD, Giáo dục 2030, Giáo viên.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những mục tiêu của công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục
đang được tiến hành tại Việt Nam là: “Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Chương trình giáo dục phổ thông 2018
đã đưa ra các mục tiêu về phẩm chất và năng lực cho những học sinh tốt nghiệp sau
năm 2030. Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục Việt Nam cũng phải trả lời các câu
hỏi mà khối OECD đã nêu lên cho mục tiêu giáo dục 2030 của họ:
Học sinh ngày nay cần những kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị nào để phát
triển và để hình thành thế giới của họ?
Làm thế nào để các hệ thống giảng dạy có thể phát triển những kiến thức, kỹ
năng, thái độ và giá trị đó một cách hiệu quả?
Nếu câu hỏi thứ nhất đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời trong chương
trình giáo dục phổ thông 2018 thì câu hỏi thứ hai vẫn đang là một vấn đề đặt ra cho
phát triển đội ngũ giáo viên hiện nay. Trên thế giới, các nước và các tổ chức quốc tế
đã nêu lên những quan điểm và giải pháp cho câu hỏi này như là một nội dung cơ
bản của giáo dục 2030. Bài viết trình bày dựa trên các quan điểm của OECD, từ đó
nêu những khuyến nghị cho giáo dục Việt Nam.
1 Trường Đại học Giáo dục, ĐHQGHN, Điện thoại: 0904.326.283. Email: huymq@vnu.edu.vn.
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành468
NỘI DUNG
Quan điểm quốc tế về giáo dục 2030
Quá trình toàn cầu hóa, tiến bộ khoa học – công nghệ và cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đang tạo ra những thách thức chưa từng có về xã hội, kinh tế và môi
trường. Đồng thời, chính những yếu tố đó cũng đang cung cấp vô số cơ hội mới để
thăng tiến con người. Lớp trẻ đang đứng trước tương lai không chắc chắn; vì vậy họ
phải được chuẩn bị tốt và sẵn sàng. Các trường học phải chuẩn bị cho học sinh của
mình những công việc còn chưa được tạo ra, các công nghệ chưa được phát minh để
giải quyết các vấn đề của tương lai. Giáo dục nhà trường phải hình thành ở người
học những phẩm chất và năng lực cần thiết cho thế kỷ 21.
Tầm nhìn mới đối với giáo dục
Các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đã có những hành động thiết thực để
tìm ra định hướng cho sự phát triển giáo dục cho thời gian sắp tới. Một trong những
hoạt động tiêu biểu có thể kể đến là Diễn đàn Giáo dục Thế giới 2015 do UNESCO
cùng với UNICEF, World Bank, UNFPA, UNDP, UN Women và UNHCR phối hợp
tổ chức tại Incheon, Hàn Quốc, từ ngày 19 đến 22 tháng 5 năm 2015 với sự tham gia
của hơn 1.600 người từ 160 quốc gia, trong đó có hơn 120 Bộ trưởng, những người
đứng đầu các cơ quan và quan chức của các tổ chức đa phương và song phương, đại
diện của xã hội dân sự, hiệp hội dạy học, thanh niên và đại diện khu vực tư nhân.
Diễn đàn đã thông qua Tuyên bố Incheon Education 2030, đưa ra một tầm nhìn mới
cho giáo dục trong những năm tới:
“Tầm nhìn mới là biến đổi cuộc sống thông qua giáo dục, vai trò quan trọng
của giáo dục được nhìn nhận là động lực chính của sự phát triển và trong việc đạt
được các mục tiêu phát triển bền vững đã được đề xuất. Tầm nhìn mới này đã được
đề cập trong Mục tiêu phát triển bền vững thứ 4 là “Đảm bảo giáo dục chất lượng
toàn diện và công bằng và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”
và các mục tiêu tương ứng. Nó mang tính biến đổi và phổ quát, liên quan đến các
hoạt động chưa hoàn thành của chương trình nghị sự Giáo dục cho mọi người và
các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ liên quan đến giáo dục, và giải quyết các thách
thức đối với giáo dục toàn cầu và mỗi quốc gia. Nó được truyền cảm hứng từ một
tầm nhìn nhân văn về giáo dục và phát triển dựa trên quyền và nhân phẩm; công
bằng xã hội; hòa nhập; sự bảo vệ; đa dạng về văn hóa, ngôn ngữ và dân tộc; và chia
sẻ trách nhiệm”.
Khung học tập OECD 2030 đưa ra tầm nhìn được chia sẻ như sau: “Trẻ em
bước vào trường phổ thông năm 2018 sẽ cần phải từ bỏ quan niệm rằng tài nguyên
là vô hạn và sẽ được khai thác; các em sẽ cần phải coi trọng sự thịnh vượng chung,
sự bền vững và hạnh phúc. Các em sẽ cần có trách nhiệm và được trao quyền, đặt sự
hợp tác lên trên sự phân chia và tính bền vững trên mức tăng ngắn hạn.
Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ cÁc cHỦ THỂ GIÁO Dục 4.0 469
Trước một thế giới ngày càng biến động, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ,
giáo dục có thể tạo ra sự khác biệt như là mọi người chấp nhận những thách thức mà
họ phải đối mặt hay họ bị chúng đánh bại. Và trong một thời đại được đặc trưng bởi
sự bùng nổ kiến thức khoa học mới và một loạt các vấn đề xã hội phức tạp, điều phù
hợp là chương trình giáo dục nên tiếp tục phát triển, có lẽ theo những cách triệt để”.
Thiết kế lại chương trình giáo dục
Theo các nghiên cứu của OECD, để chuẩn bị cho tương lai, mỗi cá nhân phải
học cách suy nghĩ và hành động theo cách tích hợp hơn, có tính đến các mối liên
kết và mối quan hệ giữa các ý tưởng, logic và vị trí mâu thuẫn hoặc không tương
thích, từ các quan điểm ngắn hạn và dài hạn. Nói cách khác, họ phải học cách trở
thành những người suy nghĩ có tính hệ thống. Cũng cần phát triển ở họ sự tò mò,
trí tưởng tượng, khả năng phục hồi và tự lập; sự tôn trọng và đánh giá cao ý tưởng,
quan điểm và giá trị của người khác; họ phải đương đầu với thất bại, sự từ chối, và
phải tiến về phía trước khi gặp khó khăn. Mỗi người cần có ước mơ, hoài bão lớn,
không chỉ dừng ở việc có được một công việc tốt và thu nhập cao; mà còn phải quan
tâm đến sự thịnh vượng của bạn bè và gia đình, cộng đồng của họ và cho cả hành
tinh của chúng ta.
Bên cạnh những yêu cầu trên, Dự án OECD Education 2030 đã xác định thêm
ba năng lực dưới đây, gọi là “Năng lực chuyển đổi”, nhằm cùng nhau giải quyết
nhu cầu ngày càng tăng của lớp trẻ để trở thành những con người sáng tạo, có trách
nhiệm và có nhận thức.
Tạo giá trị mới: Các nguồn tăng trưởng mới là rất cần thiết để đạt được sự phát
triển mạnh mẽ, toàn diện và bền vững hơn. Đổi mới có thể cung cấp các giải pháp
quan trọng, với chi phí hợp lý cho các tình huống khó xử về kinh tế, xã hội và văn
hóa. Để chuẩn bị cho tương lai, mọi người cần phải có khả năng suy nghĩ sáng tạo,
phát triển sản phẩm và dịch vụ, công việc, quy trình và phương pháp, cách nghĩ
và cách sống, doanh nghiệp, lĩnh vực, mô hình kinh doanh và mô hình xã hội mới.
Ngày càng có nhiều sự đổi mới không phải từ các cá nhân suy nghĩ và làm việc một
mình, mà thông qua hợp tác và cộng tác với những người khác qua việc sử dụng
kiến thức hiện có để tạo ra kiến thức mới. Các cấu trúc làm nền tảng cho năng lực
này bao gồm khả năng thích ứng, sự sáng tạo, óc tò mò và tư tưởng cởi mở.
Giải quyết tình trạng căng thẳng và khó xử: Trong một thế giới đặc trưng bởi sự
bất bình đẳng thì điều bắt buộc là phải dung hòa các quan điểm và lợi ích khác nhau.
Trong môi trường đó, đòi hỏi mỗi người nhất là người trẻ phải thành thạo trong việc
xử lý căng thẳng, tình trạng khó xử và sự thỏa hiệp, ví dụ tạo sự cân bằng giữa công
bằng và tự do, giữa tự chủ và cộng đồng, giữa đổi mới và liên tục, giữa hiệu quả và
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành470
quá trình dân chủ. Việc tạo sự cân bằng giữa các nhu cầu cạnh tranh hiếm khi được
thực hiện bằng một giải pháp duy nhất. Các cá nhân cần phải suy nghĩ theo cách tích
hợp hơn để tránh kết luận vội vàng và phải nhận ra sự kết nối. Trong một thế giới
phụ thuộc và xung đột lẫn nhau, mọi người có thể bảo đảm thành công hạnh phúc
của bản thân, gia đình và cộng đồng bằng cách phát triển khả năng hiểu nhu cầu và
mong muốn của người khác.
Để chuẩn bị cho tương lai, các cá nhân phải học cách suy nghĩ và hành động
theo cách tích hợp hơn, có tính đến liên kết và quan hệ giữa các ý tưởng, logic và vị
trí mâu thuẫn hoặc không tương thích, từ các quan điểm ngắn hạn và dài hạn. Nói
cách khác, họ phải học cách trở thành những người suy nghĩ có tính hệ thống.
Có trách nhiệm là điều kiện tiên quyết của hai năng lực kia. Các cá nhân có thể
tự suy nghĩ và làm việc với người khác khi đối phó với điều mới, không giống như
trước, đa dạng và không rõ ràng. Tính công bằng, sự sáng tạo và khả năng giải quyết
vấn đề đòi hỏi khả năng xem xét hậu quả sẽ xảy ra của hành động, cách đánh giá rủi
ro và chấp nhận trách nhiệm đối với các sản phẩm trong công việc của nhóm. Điều
này cho thấy ý thức trách nhiệm, sự trưởng thành về đạo đức và trí tuệ, theo đó một
người có thể phản ánh và đánh giá hành động của bản thân theo kinh nghiệm, theo
các mục tiêu cá nhân và xã hội, theo những gì họ đã được dạy và được nghe, và
những gì đúng hay sai. Mỗi cá nhân cần đặt ra và trả lời các câu hỏi liên quan đến
các tiêu chuẩn, giá trị, ý nghĩa và giới hạn để có thể hành động một cách đạo đức.
Trọng tâm của năng lực này là việc tự điều chỉnh, bao gồm tự kiểm soát, hiệu quả,
trách nhiệm, giải quyết vấn đề và khả năng thích ứng.
Những năng lực chuyển đổi vừa nói trên nhìn chung là phức tạp, có liên quan
mật thiết với nhau nhưng mỗi người có thể học để có được chúng. Khung học tập
OECD 2030 đưa ra quan điểm huy động kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị thông
qua quá trình phản ánh, dự đoán và hành động nhằm phát triển các năng lực liên
quan cần thiết này để tham gia vào thế giới.
Để đảm bảo khung học tập mới có thể thực hiện được, các năng lực chuyển đổi
và các khái niệm quan trọng khác đã được cấu trúc thành một tập hợp các yếu tố cụ
thể như sự sáng tạo, tư duy phản biện, trách nhiệm, khả năng phục hồi, năng lực
cộng tác. Đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý trường học có thể tích hợp chúng tốt
hơn vào chương trình giáo dục. Do đó, một nền tảng kiến thức để thiết kế lại chương
trình giáo dục cũng đã được xây dựng. Trong công việc này tại các quốc gia thành
viên, OECD Education 2030 đã xác định được năm thách thức chung:
1. Giáo dục nhà trường phải đối mặt với nhu cầu và yêu cầu của phụ huynh,
trường đại học và nhà tuyển dụng, các trường học đang phải đối phó với tình trạng
quá tải chương trình giảng dạy. Đã đến lúc các nhà trường phải chuyển trọng tâm
Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ cÁc cHỦ THỂ GIÁO Dục 4.0 471
của học sinh từ “dành nhiều thời gian hơn cho việc học” sang “dành thời gian học
tập có chất lượng”.
2. Cải cách chương trình giáo dục thường bị chậm về thời gian giữa công nhận,
ra quyết định, thực hiện và tác động. Khoảng cách giữa mục tiêu của chương trình
giáo dục và thành quả học tập đạt được nói chung còn khá lớn.
3. Để học sinh tham gia vào việc học và có được sự hiểu biết sâu sắc hơn thì nội
dung chương trình phải có chất lượng cao.
4. Trong khi đổi mới, chương trình giáo dục cần phải đảm bảo sự công bằng: tất
cả học sinh phải được hưởng lợi từ những thay đổi về xã hội, kinh tế và công nghệ
chứ không chỉ là một số ít người được chọn.
5. Để thực hiện hiệu quả việc cải cách, việc lập kế hoạch và điều chỉnh một cách
thận trọng là rất quan trọng và cần thiết.
Nhằm tạo ra sự thống nhất trong các nước thành viên, OECD Education 2030
đã đề xuất các nguyên tắc cho những thay đổi trong chương trình giáo dục và hệ
thống giáo dục.
1. Thiết kế khái niệm, nội dung và chủ đề
Chương trình giáo dục nên được thiết kế hướng đến học sinh để thúc đẩy họ,
và công nhận những kiến thức, kỹ năng, thái độ, giá trị họ đã có. Các chủ đề cần tạo
ra các thách thức và cho phép suy nghĩ và phản ánh một cách sâu sắc. Ở mỗi lớp học
có thể đưa ra một số lượng tương đối nhỏ các chủ đề để đảm bảo độ sâu của chúng
và chất lượng học tập của học sinh. Các chủ đề có thể trùng lặp để củng cố các khái
niệm quan trọng. Các chủ đề nên được sắp xếp theo trình tự để phản ánh logic của
ngành học hoặc môn học mà từ đó chúng được lấy ra, cho phép tiến triển từ các khái
niệm cơ bản đến nâng cao qua các giai đoạn và độ tuổi. Chương trình giáo dục phải
phù hợp với thực tiễn giảng dạy và đánh giá. Trong khi chưa có các công nghệ để
đánh giá nhiều kết quả mong muốn, các thực tiễn đánh giá khác nhau có thể là cần
thiết cho các mục đích khác nhau. Các phương pháp đánh giá mới nên được phát
triển để đánh giá kết quả và hành động của học sinh mà không phải lúc nào cũng có
thể đo lường được. Nên ưu tiên cao hơn cho những kiến thức, kỹ năng, thái độ và
giá trị có thể học được trong một bối cảnh và chuyển giao cho người khác. Học sinh
nên được cung cấp một loạt các chủ đề và dự án để lựa chọn, và họ cũng có cơ hội đề
xuất các chủ đề và dự án của riêng họ, với sự hỗ trợ để đưa ra các lựa chọn đúng đắn.
2. Quy trình thiết kế
Giáo viên nên được trao quyền để sử dụng kiến thức, kỹ năng và chuyên môn
của họ để thực hiện chương trình giáo dục một cách hiệu quả. Người học nên có thể
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành472
liên kết kinh nghiệm học tập của họ với thế giới thực và có ý thức về mục đích học
tập của họ. Điều này đòi hỏi học tập tích hợp và hợp tác cùng với việc nắm vững
kiến thức dựa trên môn học. Người học cần có cơ hội khám phá xem một chủ đề
hoặc khái niệm có thể liên hệ và kết nối với các chủ đề hoặc khái niệm khác trong
môn học, giữa các môn học, và với cuộc sống thực bên ngoài trường học. Khái niệm
“chương trình giáo dục” nên được phát triển từ “xác định trước và tĩnh” sang “thích
nghi và động”. Các trường học và giáo viên cần có thể cập nhật và sắp xếp chương
trình giảng dạy để phản ánh các yêu cầu đang phát triển của xã hội cũng như nhu
cầu học tập của cá nhân. Để đảm bảo quyền sở hữu của mình trong quá trình thực
hiện, giáo viên, học sinh và các bên liên quan khác nên sớm tham gia vào việc phát
triển chương trình giáo dục.
Đổi mới giáo dục và chương trình giáo dục phổ thông mới ở Việt Nam
Công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Việt Nam được
tiến hành từ thập niên thứ hai của thế kỷ 21 với quan điểm chỉ đạo: “Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học” theo xu thế chung trên thế giới.
Đổi mới giáo dục hướng đến mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu
gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”, bằng cách “Xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu
và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều
kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
và bản sắc dân tộc”. Những mục tiêu này vừa thể hiện tính lịch sử, tính thời đại vừa
thể hiện tính dân tộc, tính giai cấp của giáo dục Việt Nam hướng đến năm 2030.
Đối với các công dân sẽ rời nhà trường phổ thông ngay sau năm 2030, định
hướng cho sự phát triển của họ là: “ tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành p hẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng
giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và
kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo,
tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 hướng tới việc hình thành và phát
triển cho học sinh những phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách
nhiệm; những năng lực cốt lõi bao gồm những năng lực chung là năng lực tự chủ và
tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; những
Phần 4. MÔI TRƯỜNG VÀ cÁc cHỦ THỂ GIÁO Dục 4.0 473
năng lực đặc thù gồm năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học,
năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh
đó, góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh. Giáo dục tiểu học và
trung học cơ sở thực hiện theo phương châm giáo dục toàn diện và tích hợp; giáo
dục trung học phổ thông thực hiện phương châm phân hóa, chương trình học có
thêm các môn học và chuyên đề học tập lựa chọn. Trong quá trình triển khai chương
trình, “các trường xây dựng kế hoạch giáo dục riêng cho trường mình một cách linh
hoạt, mềm dẻo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của địa phương, bảo đảm
mục tiêu và chất lượng giáo dục”.
Việc thực hiện quan điểm, mục tiêu, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo cũng như thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 đặt ra
những thách thức cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường trong việc xây
dựng và triển khai kế hoạch giáo dục của nhà trường, trong việc đổi mới phương
pháp, hình thức dạy học và giáo dục và đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển năng lực học sinh.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nhằm chuẩn bị cho các công dân sẽ rời ghế nhà trường phổ thông vào năm
2030, các nước trên thế giới đã nêu lên tầm nhìn đối với giáo dục, khẳng định vai trò
của giáo dục trong việc chuẩn bị cho lớp trẻ bước vào cuộc sống. Các nước OECD
đã xác định cần chuẩn bị cho lớp trẻ những năng lực nào và bằng cách thức như thế
nào. Để thực hiện điều này, vai trò quan trọng thuộc về đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý nhà trường trong việc phát triển chương trình giáo dục.
Tại Việt Nam, việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã xác
định những phẩm chất và năng lực của những học sinh sẽ tốt nghiệp phổ thông sau
năm 2030. Để thực hiện thành công Chương trình giáo dục phổ thông 2018, rất cần
đến vai trò của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường. Đội ngũ này cần
được trao và thể hiện rõ tính tự chủ trong các hoạt động của mình, thành thạo các kỹ
năng của thế kỷ 21, có khả năng đưa những vấn đề của thời đại, ở trong nước và địa
phương vào chương trình giáo dục của nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông: Chương trình tổng
thể. Ban hành theo Thông tư số 32/ 3018 ngày 26/ 12/ 2018.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị
quyết 29) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hà Nội, 2013.
Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế
CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành474
3. OECD, The Future of Education and Skills: Education 2030, OECD, 2018.
4. Education 2030: Incheon Declaration and Framework for Action for the
implementation of Sustainable Development Goal 4. UNESCO, 2016.
TEACHERS DEVELOPMENT FOR EDUCATION 2030
Abstract: This paper presents the OECD and Vietnam’s views on the task of
preparing students who will graduate from high school after 2030. These students
must be equipped with appropriate qualities and competencies to enter rapidly
changing life. The formation of these qualities and capacities should be included
in school curriculum developed by teachers and school administrators.
Keywords: OECD, Education 2030, Teacher.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_doi_ngu_giao_vien_cho_giao_duc_2030.pdf