Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành sự
quan tâm lớn đến đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh
tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư phát triển CSHT ngày càng lớn và đa dạng.
Trong mười năm qua, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển CSHT chiếm khoảng
24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP, trong đó vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước chiếm
65%. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, ngoài nguồn lực nhà nước,
đã và đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội, đặt biệt là sự tham gia
đóng góp tự nguyện của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng trong
phát triển hạ tầng nông thôn. Nhiều hình thức đầu tư phát triển CSHT
cùng các mô hình, phương thức đầu tư, kinh doanh các dịch vụ hạ tầng
được đa dạng hóa, mở rộng, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án giao
thông theo hình thức BOT, BTO và BT ngày càng nhiều. Nhờ có sự đầu
tư trên, hệ thống CSHT ở nước ta có bước phát triển mạnh cả về chiều
rộng và chiều sâu, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp
phần bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực
văn hóa, xã hội, giảm nhẹ thiên tai và bảo đảm an ninh quốc phòng,
nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền.
Nhiều công trình hiện đại đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc
tế, tạo diện mạo mới của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.
19 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 3626 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và những khó khăn thách thức đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc dù
đã có những hải cảng quốc tế như Cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng
đón nhận các tàu lớn, song dịch vụ của các cảng này chưa đáp ứng yêu
cầu. Quy hoạch bến bãi chưa tốt, không gian bến chưa hợp lý, quản lý
khai thác thiếu tính chuyên nghiệp nên hiệu quả bốc xếp container tại
các cảng Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các cảng trong khu
vực. Hệ thống cảng sông còn rất lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hệ thống logistics còn yếu, tuy đã có một số cảng cạn (ICD) cho
hàng container song chưa phát huy được vai trò trung tâm tiếp nhận phân
phối, trung chuyển hàng hóa. Phí dịch vụ hàng hóa qua cảng cao, thời
gian thông quan kéo dài, chưa có cảng container trung chuyển quốc tế.
Trong 22 cảng hàng không, chưa có cảng hiện đại tầm cỡ quốc tế,
chưa có sân bay đạt tiêu chuẩn loại 4F hiện đại. Nhiều cảng hàng không
chưa đủ khả năng tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu,
40% số cảng hàng không chỉ có khả năng khai thác máy bay nhỏ. Năng
lực vận tải hành khách và hàng hóa bằng đường hàng không còn thấp
so với các nước trong khu vực.
Công nghệ của hệ thống các nhà máy điện chỉ đạt trình độ trung
bình so với trình độ công nghệ của một số quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Hệ thống lưới điện chất lượng thấp, tổn thất điện năng lớn
so với các nước trong khu vực và trên thế giới (của Việt Nam là 9,6%,
trong khi đó bình quân của thế giới là 8,4%).
Nhiều công trình thủy lợi chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, nhiều công
trình xây dựng đã lâu ít được duy tu, bảo dưỡng, đang bị xuống cấp
nghiêm trọng, chỉ có 19% kênh mương được kiên cố hoá.
Hạ tầng các khu công nghiệp chưa đồng bộ, còn thiếu các công
639
trình hạ tầng xã hội thiết yếu, chậm đầu tư các công trình xử lý chất
thải.
Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển nhanh nhưng chưa
thực sự bền vững, độ phủ sóng của mạng viễn thông không đồng đều,
chất lượng và mạng lưới dịch vụ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của người
sử dụng. Mật độ băng rộng vẫn còn thấp so với nhiều nước trên quốc
tế và trong khu vực. Công nghệ thông tin chưa được phát triển như một
ngành hạ tầng phục vụ cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mức độ
tin học hóa trong các ngành, lĩnh vực còn rất thấp, công nghệ thông tin
chưa thấm sâu vào từng sản phẩm của mỗi ngành, đóng góp của công
nghệ thông tin cho giá trị gia tăng trong cấu thành sản phẩm còn ít. Quy
mô công nghiệp công nghệ thông tin còn nhỏ, năng lực hoạt động và
khả năng cạnh tranh còn yếu. Công nghiệp phần mềm còn manh mún,
năng lực nghiên cứu và phát triển chưa cao, đội ngũ nhân lực còn thiếu
về số lượng và yếu về các kỹ năng chuyên sâu cũng như ngoại ngữ. Tỷ
lệ nội địa hoá và hàm lượng giá trị gia tăng của công nghiệp phần cứng,
điện tử không cao, chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng doanh thu. Công
nghiệp nội dung số và công nghiệp dịch vụ vẫn còn mang tính sơ khai.
Công trình kết cấu hạ tầng đa mục tiêu còn ít, hiệu quả đầu tư thấp
do thiếu sự phối hợp trong quy hoạch và quản lý quy hoạch giao thông
với thủy lợi, thủy điện, kinh tế biển, dịch vụ, du lịch
Hai là, hạ tầng đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng kém và quá tải.
Giao thông đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Tỷ lệ đất dành
cho giao thông quá thấp (Hà Nội mới chỉ đạt 6-7%, thành phố Hồ Chí
Minh 8%, trong khi tiêu chí quy định là 20-25%). Mật độ đường tại
các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng chỉ đạt 4-5 km/km2. Trong mạng lưới, các đường giao thông
chính, đường xuyên tâm, các tuyến vận tải công cộng khối lượng lớn
như hệ thống đường sắt ngầm, đường sắt trên cao và đường vành đai
chưa được xây dựng hoàn thiện, khép kín, ảnh hướng lớn đến tổ chức
và giải quyết các vấn đề giao thông. Vận tải công cộng chưa đáp ứng
kịp nhu cầu (xe buýt Hà Nội chỉ đáp ứng khoảng 15%; thành phố Hồ
640
Chí Minh 10%, Đà Nẵng và Hải Phòng khoảng 3%). Tỷ lệ đất dành cho
giao thông tĩnh rất thấp, chỉ khoảng dưới 1%, Hà Nội chỉ có 0,23% và
thành phố Hồ Chí Minh 1% so với diện tích đất xây dựng đô thị (yêu
cầu là 3-5%). Hệ thống bến bãi, điểm đỗ xe thiếu về số lượng, kém về
chất lượng phục vụ.
Thiếu hệ thống đường vành đai liên kết vùng và hệ thống giao
thông công cộng liên vùng. Hệ thống giao thông kết nối giữa các đô
thị lớn với các đầu mối giao thông liên vùng và quốc tế còn hạn chế, tổ
chức vận tải chưa hợp lý. Việc tin học hóa tổ chức vận tải đa phương
thức chưa được áp dụng.
Chất lượng cấp điện khu vực đô thị còn kém, thiếu ổn định. Tỷ lệ
đường dây được ngầm hóa còn thấp.
Cấp nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Tỷ lệ thất thoát nước sạch
đô thị ở mức cao khoảng 30%, riêng ở thành phố Hồ Chí Minh là 39%;
tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước của Hà Nội mới đạt khoảng 88,5% và
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 87%.
Hệ thống thoát nước còn hạn chế, lạc hậu. Phổ biến nhất ở các đô
thị là hệ thống thoát nước chung cho cả ba loại nước thải sinh hoạt,
nước thải sản xuất và nước mưa. Hầu hết các đô thị đều không có trạm
xử lý nước thải tập trung, nước thải sinh hoạt, bệnh viện, công nghiệp
không qua xử lý mà xả thẳng vào hệ thống cống thành phố, hồ ao, kênh
rạch, sông ngòi gây ô nhiễm nặng nề. Tại các khu công nghiệp và các
khu đô thị mới đều đang xây dựng hệ thống thoát nước riêng, tuy vậy
vẫn chưa triệt để.
Tình trạng ngập úng đang là vấn đề lớn cần phải giải quyết của các
thành phố lớn. Các dự án cải tạo và xây dựng hệ thống thoát nước của
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua chưa giải
quyết một cách tổng thể cho hệ thống thoát nước thành phố. Ở Hà Nội,
các dự án mới dừng ở cải tạo hệ thống nước mưa cho 4 quận nội thành
cũ, hệ thống hồ điều hòa, các tuyến mương, cống chưa hoàn chỉnh theo
641
quy hoạch được duyệt. Triển khai các dự án chống ngập cho thành phố
Hồ Chí Minh còn chậm.
Chất thải rắn hầu hết đang sử dụng biện pháp chôn lấp, tốn nhiều
diện tích đất, không có khả năng tái chế, thu hồi và sử dụng lại nguồn
nguyên liệu từ rác thải phát sinh (Hà Nội khoảng 5.000 tấn/ngày, thành
phố Hồ Chí Minh khoảng 6.300-7.200 tấn/ngày).
Ba là, hạ tầng xã hội chưa đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu quả sử
dụng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu.
Hạ tầng giáo dục, đào tạo vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học tích cực, nhất là hệ thống
trường mầm non, mẫu giáo. Số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm tỷ
trọng thấp (cao nhất là đối với tiểu học, đạt 36,6%). Thiếu các cơ sở đào
tạo đại học chất lượng cao đạt trình độ quốc tế. Phòng thí nghiệm, cơ sở
thực nghiệm, thư viện, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học
còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học. Ký túc xá cho học
sinh, sinh viên còn thiếu. Hệ thống giáo dục đào tạo chưa đồng bộ, liên
thông, chưa cân đối giữa giáo dục nghề nghiệp với giáo dục trung học
phổ thông và giáo dục đại học.
Hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng yêu cầu, cơ
sở khám chữa bệnh còn thiếu, nhất là ở các vùng đông dân cư và vùng
sâu, vùng xa. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến
tỉnh chậm được khắc phục. Đầu tư cho y tế còn thấp, tỷ lệ chi ngân sách
nhà nước đạt khoảng 8,5%. Xã hội hóa trong lĩnh vực y tế còn nhiều hạn
chế. Tỷ lệ giường bệnh khu vực bệnh viện tư còn thấp, mới chỉ chiếm
3,8% tổng số giường bệnh. Trang bị của các cơ sở y tế còn thiếu và chưa
hiện đại, đặc biệt là đối với các cơ sở y tế tuyến địa phương, làm tăng
áp lực, quá tải đối với các cơ sở tuyến Trung ương. Vẫn chưa có những
cơ sở y tế chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới.
Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch phát triển chưa đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân. Chất lượng công trình và hiệu quả khai
thác, sử dụng còn thấp.
Bốn là, hệ thống hạ tầng nông thôn phát triển còn chưa đồng đều,
642
nhất là ở các tỉnh miền núi và Đồng bằng sông Cửu Long.
Gần 20% số xã ở Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long chưa có
đường ô tô đến trung tâm xã. Kết cấu hạ tầng các dịch vụ xã hội cơ bản
như y tế, giáo dục, đào tạo còn thiếu và yếu. Nhiều vùng còn thiếu nước
sinh hoạt gay gắt vào mùa khô, tỷ lệ dân nông thôn được sử dụng nước
hợp vệ sinh mới chỉ đạt 83% vào năm 2010, chất lượng nước sinh hoạt
mới được khoảng 30% đạt tiêu chuẩn y tế. Điện dùng cho nông nghiệp,
nông thôn chưa được bảo đảm ổn định, tỷ lệ hộ nông dân được cung cấp
điện mới chỉ đạt 95,4%. Tính đến năm 2011 cả nước vẫn còn 1,7 triệu
hộ dân chưa có điện, trong đó có 0,7 triệu hộ nông dân.
Năm là, nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là
rất lớn, xong tiềm lực tài chính của đất nước còn nhiều hạn chế.
Việt Nam đang tiến hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH
năm năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển KT-XH mười năm 2011-
2020 với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, có hệ thống CSHT tương đối hiện đại và đồng bộ.
Ngày 16/01/2012, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thông qua Nghị quyết số 13-NQ/TW về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết này đã phác thảo bức
tranh tổng thể của CSHT Việt Nam vào năm 2020, với nhiều dự án hạ
tầng quan trọng có tính chất đột phá. Trong giai đoạn từ nay đến năm
2020, Việt Nam phấn đấu hoàn thành đường cao tốc Bắc - Nam, các
tuyến cao tốc kết nối đến các cảng hàng không, cảng biển lớn, phát
triển hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh;
nâng cấp hệ thống lưới điện, xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Ninh
Thuận và nhiều nhà máy điện khác; xây dựng và nâng cấp hệ thống
thủy lợi, đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; hiện đại hoá
và mở rộng công suất các bệnh viện tuyến Trung ương Ước tính nhu
cầu vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2020 là rất lớn, khoảng 400 tỷ USD, trong đó cho hạ tầng
giao thông là 154 tỷ USD, cho hạ tầng y tế là 8 tỷ USD, cho hạ tầng
643
thủy lợi là 11 tỷ USD, cho hạ tầng cấp điện là 45 tỷ USD, cho hạ tầng
đô thị khoảng 20 tỷ USD, cho hạ tầng cấp thoát nước và vệ sinh môi
trường là 16 tỷ USD, cho hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông là
14 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay quy mô của nền kinh tế Việt Nam còn
nhỏ bé. Khả năng cân đối vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cho đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng là rất hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng 50%
nhu cầu.
2. Một số khuyến nghị nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
ở Việt Nam
Một là, cần tránh đầu tư dàn trải, tập trung đầu tư cho các công
trình quan trọng có tính chất đột phá.
Hai là, sớm ban hành Luật Đầu tư công để tăng hiệu quả đầu tư,
tránh thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng CSHT.
Ba là, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển CSHT. Thực hiện đa dạng hóa
phương thức đầu tư, đặc biệt đẩy mạnh đầu tư theo hình thức PPP.
Bốn là, tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn ODA cho đầu tư phát triển
CSHT nhất là các công trình giao thông quy mô lớn.
Năm là, đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ mới trong đầu tư
xây dựng và quản lý vận hành công trình CSHT nhằm rút ngắn trình độ
phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành trong đầu tư
xây dựng CSHT nhằm bảo đảm sự đồng bộ của cả hệ thống.
Bảy là, đẩy mạnh huy động sự đóng góp của nhân dân trong phát
triển hệ thống giao thông nông thôn./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_co_so_ha_tang_tai_vn_ket_cau_ha_tang_3688.pdf