Pháp luật ở một số nước Civil Law: điển hình là hệ thống pháp luật của Pháp và Đức.

Trước cách mạng tư sản Pháp năm 1789 Pháp không có hệthống pháp luật thống

nhất, chủyếu sửdụng luật giáo hội và các tập quán địa phương (có khoảng 60 tập

quán cấp tỉnh và 300 tập quán cấp huyện); có một học giảngười Pháp tên là

Veltare đã nhận xét nếu một người đi khắp đất nước Pháp thì cũng phải chịu sự

thay đổi pháp luật thường xuyên như thay đổi ngựa. Đến sau cách mạng tư sản ở

Pháp đã diễn ra một cuộc đại pháp điển, xây dựng hàng loạt Bộluật, Luật mà

trong đó điển hình là Bộluật Napoleon (1804) đây chính là tên gọi của Bộluật dân

sựPháp, do hoàng đếNapoleon khởi xướng và trực tiếp quá trình soạn thảo,

Napoleon sinhnăm 1769 đến năm 1800 lên ngôi tổng tài đệnhất đã chỉđịnh một

uỷban pháp điển gồm 4 luật gia có kinh nghi ệm, chỉtrong 4 tháng uỷban này đã

đưa ra bản dựthảo đầu tiên của Bộluật dân sự; tuy nhiên Bộluật này phải trải qua

4 năm với 102 cuộc họp mới thông qua, trong 102 cuộc họp đó Napoleon đã tham

gia trực tiếp 57 cuộc họp.

pdf12 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Pháp luật ở một số nước Civil Law: điển hình là hệ thống pháp luật của Pháp và Đức., để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp luật ở một số nước Civil Law: điển hình là hệ thống pháp luật của Pháp và Đức. a. Sự phát triển của hệ thống pháp luật Pháp: Trước cách mạng tư sản Pháp năm 1789 Pháp không có hệ thống pháp luật thống nhất, chủ yếu sử dụng luật giáo hội và các tập quán địa phương (có khoảng 60 tập quán cấp tỉnh và 300 tập quán cấp huyện); có một học giả người Pháp tên là Veltare đã nhận xét nếu một người đi khắp đất nước Pháp thì cũng phải chịu sự thay đổi pháp luật thường xuyên như thay đổi ngựa. Đến sau cách mạng tư sản ở Pháp đã diễn ra một cuộc đại pháp điển, xây dựng hàng loạt Bộ luật, Luật mà trong đó điển hình là Bộ luật Napoleon (1804) đây chính là tên gọi của Bộ luật dân sự Pháp, do hoàng đế Napoleon khởi xướng và trực tiếp quá trình soạn thảo, Napoleon sinh năm 1769 đến năm 1800 lên ngôi tổng tài đệ nhất đã chỉ định một uỷ ban pháp điển gồm 4 luật gia có kinh nghiệm, chỉ trong 4 tháng uỷ ban này đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên của Bộ luật dân sự; tuy nhiên Bộ luật này phải trải qua 4 năm với 102 cuộc họp mới thông qua, trong 102 cuộc họp đó Napoleon đã tham gia trực tiếp 57 cuộc họp. Đây là Bộ luật dễ hiểu, đến cả những người nông dân khi đọc vẫn có thể hiểu được một cách chi tiết…, đây có thể nói là Bộ luật kinh điển, hình mẫu cho dân luật các nước Civil Law, Bộ luật khẳng định quan hệ sở hữu tài sản mới được xác lập sau cách mạng tư sản pháp, nhấn mạnh các quyền về sở hữu, phương thức sở hữu và thể hiện những tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản pháp như “tự do, bình đẳng, bác ái”, quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền bình đẳng giữa đàn ông với đàn bà trong thừa kế, trong các qui định đã xoá bỏ các đặc quyền… cho đến nay Bộ luật Napoleon vẫn còn hiệu lực. Hệ thống Toà án của Pháp được tổ chức theo Hiến pháp 1958, được phân chia thành Toà án tư pháp và hệ thống Tài phán công pháp. Trong đó Toà án tư pháp bao gồm toà dân sự và toà hình sự. Toà dân sự được chia thành toà dân sự thường và dân sự chuyên ngành, toà dân sự chuyên ngành được chia thành toà lao động và toà thương mại. Đối với toà hình sự cũng được chia thành toà hình sự thường và toà hình sự đặc biệt. Ngoài ra còn có toà án tư pháp tối cao (toà phá án) toà này không trực tiếp xét xử mà chỉ xem xét lại tình hợp pháp quyết định của toà án cấp dưới, bản án của toà này được cấp dưới nghiên cứu và thực hiện. Đối với hệ thống tài phán công được chia thành toà hiến pháp, tài chính công và toà án hành chính. Toà Hiến pháp là cơ quan tài phán cao nhất về trật tự Hiến pháp, có nghĩa vụ kiểm sát tính hợp hiến của luật, của sự phân quyền lập pháp, hành pháp và kiểm soát tình hợp hiến của các cam kết quốc tế mà pháp luật chịu sự ràng buộc. Toà án hành chính, ở đây theo quan điểm của Civil Law thì nhà nước có tư cách pháp nhân công pháp, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản đó, nhà nước có trách nhiệm đối với hoạt động của mình thông qua các cơ quan có thẩm quyền và các công chức nhà nước. Đối với toà tài chính công là cơ quan chuyên ngành về tài chính xuất hiện từ những năm 1807 có chức năng giúp nghị viện và Chính phủ kiểm tra việc thực hiện pháp luật về tài chính. Ở Pháp còn có toà án xung đột chuyên giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền xét xử, tuy nhiên Pháp không có viện công tố, các công tố viên nằm trong tổ chức của toà án nhưng không phụ thuộc vào toà án. Việc đào đào luật và nghề luật ở Pháp cũng có những đặc trưng cụ thể, bằng đại học luật vẫn là điều kiện cần thiết hành nghề luật, sau 4 năm học luật muốn trở thành thẩm phán hoặc công tố viên thì phải học qua trường đào tạo thẩm phán ở Bordeaax 31 tháng và trải qua một thời gian thực tập, học viên tốt nghiệp được bổ nhiệm làm thẩm phán hoặc công tố viên; những người muốn trở thành thẩm phán tại toà án hành chính thì phải học tại học viện hành chính quốc gia, riêng có một điểm đặc biệt thẩm phán toà án thương mại lại được cử ra từ các thương nhân có uy tín và kinh nghiệm. Để trở thành luật sư học viên phải hoàn thành khoá học 12 tháng ở trung tâm đào tạo luật sư và phải là thành viên của hội luật sư địa phương thực tập từ 2-5 năm. Nghề luật sư ở Pháp được coi là một nghề tự do, độc quyền trong trợ giúp và đại diện cho các bên trước toà. b. Sự phát triển của hệ thống pháp luật Đức: Nước Đức như chúng ta đã biết chỉ có sự thống nhất trong thời gian ngắn ngủi (1867-1945) và từ 1990 đến nay, trước năm 1867 Đức có nhiều loại Luật bằng nhiều thứ tiếng khác nhau; Hệ thống pháp luât Đức là hệ thống pháp luật liên bang, mỗi bang có một nghị viện riêng, có thẩm quyền lập pháp. Bộ luật dân sự Đức là bộ luật điển hình hay còn gọi là bộ luật của các giáo sư, vì nó được các giáo sư trong các trường đại học ở Đức soạn thảo, khác với Pháp là do các luật gia có kinh nghiệm soạn thảo, tuy nó có cấu trúc hợp lý, rõ ràng nhưng lời văn không dễ hiểu, sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành, Bộ luật dân sự Đức có 2400 đoạn, 5 quyển (phần chung, nghĩa vụ, các quyền tài sản và quyền sở hữu, luật gia đình, luật thừa kế), nội dung có tham vọng điều chỉnh nhiều vấn đề, riêng bộ luật dân sự Pháp thì lại cố gắng điều chỉnh tất cả mối quan hệ trong xã hội kể cả lĩnh vực thương mại, đối với Đức thì có Bộ luật thương mại riêng. Hệ thống Toà án của Đức hơi phức tạp, có toà Hiến pháp, toà án bang (16 bang) và toà án liên bang (6 toà án) và toà khu vực, những vụ việc dân sự thì được xét xử ở cấp khu vực, phúc thẩm ở cấp bang và chung thẩm ở cấp liên bang; đối với những vụ việc nghiêm trọng thì xét xử cấp bang và phúc thẩm, chung thẩm cấp liên bang. Toà án Hiến pháp giải quyết các vấn đề liên quan đến hiến pháp, tranh chấp giữa liên bang và bang hoặc các bang với nhau. Đối với toà liên bang bao gồm các toà như: toà thuế, các vấn đề xã hội, các vấn đề lao động, các vấn đề hành chính và các vấn đề chung. Toà án bang được tổ chức như các toà án của liên bang; Toà khu vực xét xử các lĩnh vực xã hội, lao động, hành chính dân sự, hình sự, thương mại được tách ra từ toà xét xử các vấn đề chung của toà bang. Việc đào tạo luật và nghề luật của Đức cũng có nét đặc trưng riêng, nhìn chung ở Đức không có mô hình đào tạo nghề luật như ở Pháp, bậc đại học kéo dài 4 năm và kết thúc bằng kỳ thi quốc gia thứ nhất, sau khi có chứng chỉ phải có tiếp 3 năm thực tập, trong 3 năm thực tập phải có 1,5 năm học kỹ năng (chuẩn bị hồ sơ, tiếp xúc với khách hàng, tranh tụng…), nửa năm thực tập tại toà án, nửa năm thực tập tại văn phòng luật sư và nửa năm dành cho việc thi quốc gia lần 2. Người tốt nghiệp sau kỳ thi quốc gia lần 2 mới có bằng chính thức, người muốn trở thành luật sư không phải học để lấy bằng luật sư và người muốn trở thành thẩm phán thi xong ra thực tập có thể được bổ nhiệm không phải học như ở Pháp. Nghề luật sư ở Đức được coi là nghề phục vụ công lý không giống như ở Pháp là một nghề tự do phục vụ cho khách hàng, có thoả thuận thù lao với khách hàng, còn ở Đức thì không được tự ý thoả thuận, luật sư chỉ được lấy thù lao theo qui định. Luật sư có thể chuyên sâu vào một lĩnh vực nếu đã có chứng chỉ chuyên ngành, đã hành nghề 2 năm và chỉ được chuyên sâu tối đa 5/ 5 lĩnh vực 2. Pháp luật ở một số nước Common Law: điển hình là hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ. a. Sự phát triển của hệ thống pháp luật của Anh: Trước năm 1066 (thời kỳ Anglo-Saxon - những người gốc Anh). Nước Anh đã từng là một phần của đế quốc La Mã trong 4 thập kỷ nhưng không bị ảnh hưởng của Luật La Mã, sau khi đế quốc La Mã suy tàn, nước Anh bị chia thành nhiều vương quốc nhỏ với hệ thống pháp luật mang tính địa phương, chủ yếu chịu ảnh hưởng tập quán bởi người Germain. Từ năm 1066 – 1485 đây là thời kỳ ra đời của Common Law mang ý nghĩa là luật chung. Những người Normande và người ở miền Bắc nước Pháp đã chiến thắng người Anglo-Saxon trong trận Hasting, thủ lĩnh những người Normande đã lên ngôi vua nước Anh lấy hiệu là Willam (người chinh phục), Willam đã tuyên bố quy trì tập quán Anglo-Saxon và tập trung xây dựng chế độ phong kiến tập quyền. Người Anh rất quí trọng truyền thống, chế độ quân chủ của nước Anh đến nay vẫn tồn tại, sau năm 1066 các luật địa phương vẫn được áp dụng pháp quan, toà án Hoàng gia Anh chỉ hoạt động trong phạm vi hạn chế, dưới thời Willam toà án hoàng gia chỉ xét xử những vụ việc liên quan đến những người của triều đình và các vụ việc về thuế. Toà án hoàng gia muốn mở rộng thẩm quyền và thu nhập nên đã cử các thẩm phán đi xét xử lưu động, từ đó dần đã thống nhất nguyên tắc xét xử và đến giữa thế kỷ XIII đã hình thành một hệ thống án lệ được áp dụng thống nhất trên toàn nước Anh thay thế cho luật địa phương. Từ thế kỷ XV– thế kỷ XIX ở Anh đã ra đời luật công bằng, luật chung đã phát huy những mặt tích cực trong thống nhất cách áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử của toà án, nhưng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, thực hiện khả năng có hạn trong việc giải quyết các vấn đề rất đa dạng của cuộc sống. Luật công bằng có nguồn gốc coi nhà vua như biểu tượng của công lý, tất cả các vấn đề đều được gửi đơn thỉnh cầu lên vua. Đến cuối thế kỷ XVI cơ quan tài phán đặc biệt là toà công bằng đã ra đời, ngài đổng lý văn phòng giữ vai trò pháp quan; Luật công bằng xuất hiện bên cạnh luật chung nhưng không làm thay đổi luật chung và không vô hiệu hoá các qui định của luậ chung. Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIX ở Anh đã có cuộc cải cách hệ thống toà án và thủ tục tố tụng do sau chiến tranh Anh – Pháp, nước Anh bị lâm vào tình trạng khủng hoảng đòi hỏi phải có cải cách toàn diện . Lúc này ở Anh có 3 hệ thống toà án gây nên sự chồng chéo và mâu thuẫn (Hoàng gia, Công bằng và địa phương). Ngoài ra các thủ tục tố tụng ở Anh quá phức tạp, mỗi vụ đòi hỏi phải có một loại trát (write) riêng. Việc cải cách này xuết hiện từ tư tưởng của Jeremy Bantan, ông cho rằng hệ thống pháp luật của Anh mang tính lịch sử, ngẫu nhiên nhiều hơn là tính hợp lý và đề xuất pháp điển hoá ở Anh lúc bấy giờ, ban đầu tư tưởng cải cách này không được ủng hộ của các luật sư, đến cuối thế kỷ XIX đã được chấp nhận và trở thành cơ sở cho việc cải cách pháp luật ở Anh. Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay ở anh xuất hiện luật thành văn. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất luật hành chính phát triển mạnh cùng với sự xuất hiện của hàng loạt văn bản, trong thời kỳ này cũng đã diễn ra nhiều cải cách trong một số lĩnh vực mang tính truyền thống như gia đình, hợp đồng, dân sự, thương mại, hình sự… Năm 1972 Anh ra nhập cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) cũng đã tác động mạnh mẽ đến việc hình thành luật thành văn ở Anh. Pháp luật Anh được mở rộng chủ yếu là do công cuộc mở rộng thuộc địa, không có sự tự nguyện tiếp nhận như hệ thống pháp luật của Pháp, tuy nhiên có một điểm đặc biệt những nước đã tiếp nhận hệ thống pháp luật của Anh thì lại không muốn từ bỏ, bởi pháp luật của Anh vừa có tình mềm dẻo vừa có tình thực tiễn đặc biệt. Hệ thống pháp luật Anh đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, điển hình như Úc trở thành thuộc địa của Anh năm 1770, Hồng Kông năm 1842 và nhà nước tự trị Canada năm 1867. Nguồn của hệ thống pháp luật Anh bao gồm Án lệ, luật thành văn, tập quán và lẽ phải, trong đó chủ yếu là án lệ, nó là phần lập luận trong các bản án và được coi là có tính bắt buộc. Hệ thống toà án Anh được phân chia thành toà án cấp trên và toà án cấp dưới. Toà án cấp trên bao gồm toà phúc thẩm và sơ thẩm; Trong phúc thầm có toà phúc thẩm dân sự và toà phúc thẩm hình sự. Đối với toà sơ thẩm bao gồm toà công lý cấp cao và toà án triều đình, đối với toà án công lý cấp cao có toà án nữ hoàng, Toà án pháp quan và toà án gia đình; đối với toà án triều đình chỉ xét xử các vụ án nghiêm trọng. Toà án cấp dưới bao gồm toà hình sự, toà dân sự và toà hành chính. Ngoài ra còn có toà án tối cao Anh bao gồm Uỷ ban phúc thẩm thượng nghị viện và Hội đồng cơ mật hoàng gia. Anh không có việc công tố, Bộ Tư pháp, bởi họ cho rằng sự có mặt của viện công tố thể hiện sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bị buộc tội trong vụ án hình sự… Việc đào tạo nghề luật ở Anh không có tính bài bản (không chính qui) họ thiên về đào tạo từ thực tiễn và thủ tục tố tụng. Nghề luật sư được chia làm hai loại, luật sư bào chữa và luật sư tư vấn; Luật sư bào chữa làm nhiệm vụ biện hộ bảo vệ quyền lợi của khách hàng trước toà án, luật sư biện hộ không trực tiếp gặp khách hàng mà nhận yêu cầu và thù lao thông qua luật sư tư vấn. Việc đào tạo luật sư bào chữa được thực hiện thông qua bữa ăn tối, một người muốn trở thành luật sư bào chữa phải đến học ở Hội đoàn luật sư (Inn of Court) và phải trải qua 8 kỳ ăn tối, mỗi kỳ kéo dài 3 tuần, mỗi tuần phải đến ăn tối tại Hội đoàn luật sư ít nhất 3 lần, tại bữa ăn tối người ta diễn án, sau đó ăn tối và họ truyền kinh nghiệm cho nhau. Đối với việc đào tạo luật sư tư vấn chỉ cần thi đỗ trong kỳ thi chuyên môn do Hội luật sư tổ chức. Thẩm pháp ở Anh được cử ra từ các luật sư có uy tín và kinh nghiệm, thẩm phán xuất phát từ các luật sư tranh tụng và được giữ chức vụ suốt đời, đến năm 1990 ở Anh đã cho phép luật sư tư vấn tranh tụng ở các toà án cấp dưới. b. Sự phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ: Người Anh xuất hiện ở Bắc Mỹ vào thế kỷ XVII đến năm 1722 ở Bắc Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh, nhưng lúc này pháp luật của Anh không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước Mỹ lúc đó. Xã hội Mỹ lúc đó có những nét đặc thù do đó phải áp dụng luật riêng được xây dựng trên cơ sở kinh thánh. Sau khi Mỹ tuyên bố độc lập năm 1776 pháp luật Anh và pháp luật Mỹ đã trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập, hệ thống pháp luật Mỹ vừa có tính ổn định tương đối (dựa trên Hiến pháp Mỹ) vừa có tính điều chỉnh linh hoạt (dựa trên cơ sở án lệ), hệ thống pháp luật Mỹ là hệ thống pháp luật liên bang còn đối với hệ thống pháp luật Anh là hệ thống pháp luật đơn nhất; tuy nhiên hai hệ thống pháp luật này vẫn có nền tảng chung, pháp luật Mỹ vẫn sử dụng khái niệm, cách thức lập luận, lý thuyết và nguồn luật của pháp luật Anh. Nguồn của pháp luật Mỹ chủ yếu là luật thành văn, Hiến pháp Mỹ (1787) là hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới và là Hiến pháp lâu đời nhất đến nay vẫn còn hiệu lực. Hiến pháp Mỹ không chỉ có giá trị nghi thức mà trên thực tế là cơ sở của hệ thống pháp luật Mỹ. Các bang của Mỹ cũng có hiến pháp riêng được soạn thảo và ban hành dựa trên hiến pháp liên bang. Pháp luật của liên bang cao hơn pháp luật của bang, nhưng về nguyên tắc thì quyền lập pháp chủ yếu thuộc về các bang. Ở Mỹ có 50 bang tương đương với 50 hệ thống pháp luật nhưng chúng cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất vì khi soạn thảo các văn bản pháp luật, các bang thường tham khảo luật của các bang khác và thường không ban hành các qui phạm pháp luật quá khác biệt. Hệ thống toà án ở Mỹ bao gồm toà án liên bang và toà án bang. Toà án liên bang bao gồm toà án thông thường và toà án chuyên ngành; Toà án thông thường bao gồm toà án tối cao liên bang, toà án liên bang phúc thẩm và toà án liên bang; Toà án chuyên ngành bao gồm các toà án về thuế, khiếu tố và toà án thương mại quốc tế. Đối với toà án bang bao gồm toà tối cao, toà phúc thẩm và toà sơ thẩm. Giữa toà án liên bang và toà án bang về nguyên tắc toà án cấp bang có nhiều thẩm quyền hơn toà án liên bang, toà án liên bang chỉ có thẩm quyền xét xử khi vụ việc liên quan đến việc giải thích hiến pháp liên bang và luật của liên bang. Toà án cấp bang giải quyết 95 % vụ việc và những vụ việc thuộc thẩm quyền của toà án cấp bang thì quyết định của toà án cấp bang là chung thẩm và không thể bị kháng cáo. Việc đào tạo nghề luật ở Mỹ có đặc trưng khác với các nước khác, một người muốn vào học đại học thì phải có bằng cao đẳng (đào tạo từ 3-4 năm) để có văn hoá cơ bản sau đó sẽ được vào các trường luật để học một chương trình chủ yếu thiên về kinh thánh. Quá trình học chủ yếu bằng phương pháp thực hành như phương pháp tình huống, Socrdte (giáo sư và sinh viên đối thoại) và phương pháp thực hành trực tiếp (các sinh viên phảo tham gia tư vấn luật và đại diện cho khách hàng dưới sự theo dõi của luật sư và đồng thời là giáo sư. Sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua một thời gian tập sự ngắn đã có thể làm được việc. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 1 triệu luật gia có mật độ đông nhất thế giới, tâm lý công dân Mỹ rất thích kiện tụng. Điều kiện để trở thành luật sư ở mỗi bang cũng khác nhau, toà án bang là cơ quan có thẩm quyền công nhận luật sư và cho phép hành nghề, một người muốn trở thành luật sư thì phải trải qua kỳ thi công nhận dưới dạng thi viết, hàng năm luật sư phải đi học tiếp thu kiến thức mới; Luật sư bang này không thể là luật sư của bang khác. Trong phòng xử án luật sư không bảo vệ công lý mà bảo vệ cho thân chủ và cho lý lẽ riêng của mình, tại phiên toà thẩm phán và bồi thẩm đoàn chỉ căn cứ vào những gì họ nghe và thấy tại phiên toà để đưa ra phán quyết, trong đó thẩm phán đưa ra chế tài còn bồi thẩm đoàn chỉ có kết luật có tội hay không có tội… Thẩm phán liên bang do tổng thống Mỹ lựa chọn và bổ nhiệm với sự phê chuẩn của nghị viện, thẩm phán được lựa chọn từ những luật sư thực hành nổi tiếng hoặc các giáo sư luật ở các trường đại học lớn. Xét ở khía cạnh đào tạo nghề luật giữa Việt Nam và các nước cho thấy, chúng ta vẫn mang nặng tính lý thuyết, pháp luật xã hội chủ nghĩa, luật sư với chức năng chủ yếu là bảo vệ công lý; tuy nhiên nếu so sánh với quá trình đào tạo nghề luật của Đức và Mỹ thì có thể nói còn thua kém xa về tư duy, cách thức đào tạo, quá trình đào tạo nghề luật của Đức và Mỹ tuy thuộc hai dòng họ pháp luật khác nhau nhưng qua quá trình đào tạo như vậy đã giúp cho sinh viên ra trường với một khả năng hội nhập rất lớn, sử dụng chuyên môn một cách vững chắc và thành thạo, từ khâu tiếp xúc với khách hàng cho đến khâu tranh tụng tại phiên toà, thể hiện rõ một quá trình đào tạo mang tính chuyên môn hoá cao mà chúng ta cần phải tiếp thu chọn lọc và kế thừa Nguồn:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf12_8307.pdf
Tài liệu liên quan