Phân tích mâu thuẫn giữa hệ thống triết học và phương pháp trong triết học của Hêghen

HÊGHEN là một trong ba triết gia tiêu biểu nhất của triết học cổ điển Đức - một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX nhưng đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học; sự mâu thuẫn trong triết học của ông giữa một bên là phương pháp biện chứng khoa học và một bên là hệ thống triết học duy tâm đã trở thành một trong những nguồn gốc lí luận của tiết học mácxít.

HÊGHEN là nhà duy tâm khách quan, quan điểm triết học của ông là hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, đạt đến trình độ và sự phát triển nhất của phép biện chứng duy tâm. Ông coi tinh thần thế giới là cái có trước, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyết đối” hay “tinh thần thế giới”; vật chất với tư cách là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của “tinh thần thế giới”, là cái có sau; tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.

Tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc, là động lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn khác nhau và ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó, như vậy đây là sự phát triển biện chứng nhưng không phải là sự phát triển tự thân mà là sự phát triển dựa vào ý niệm tuyệt đối.

 

doc9 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phân tích mâu thuẫn giữa hệ thống triết học và phương pháp trong triết học của Hêghen, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1. Phân tích mâu thuẫn giữa hệ thống triết học và phương pháp trong triết học của Hêghen. HÊGHEN là một trong ba triết gia tiêu biểu nhất của triết học cổ điển Đức - một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX nhưng đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học; sự mâu thuẫn trong triết học của ông giữa một bên là phương pháp biện chứng khoa học và một bên là hệ thống triết học duy tâm đã trở thành một trong những nguồn gốc lí luận của tiết học mácxít. HÊGHEN là nhà duy tâm khách quan, quan điểm triết học của ông là hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, đạt đến trình độ và sự phát triển nhất của phép biện chứng duy tâm. Ông coi tinh thần thế giới là cái có trước, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyết đối” hay “tinh thần thế giới”; vật chất với tư cách là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của “tinh thần thế giới”, là cái có sau; tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc, là động lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn khác nhau và ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó, như vậy đây là sự phát triển biện chứng nhưng không phải là sự phát triển tự thân mà là sự phát triển dựa vào ý niệm tuyệt đối. HÊGHEN là nhà biện chứng, ông có công hoàn thiện và phát triển một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng – đây là điều mà phép biện chứng thời cổ đại Hy Lạp đã chưa thể đạt tới và cả chủ nghĩa duy vật thế kỉ XVII – XVIII Tây Âu cũng không có khả năng tạo ra. Ông phê phán tư duy siêu hình, máy móc và người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng nghĩa là trong mối liên hệ biện chứng. Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, HÊGHEN không chỉ trình bày các phạm trù chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn… mà còn đề cập đến vấn đề “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại; phủ định của phủ định; quy luật mâu thuẫn…”. Tuy nhiên, tất cả những phạm trù trên lại là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong quan niệm của HÊGHEN, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên, xã hội mà là ngược lại, ý niệm tuyệt đối là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do tinh thần thế giới sinh ra và quyết định. Sự phát triển đó trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, trước hết là sự phát triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức thông qua giới tự nhiên, xã hội. Một sự “tồn tại khác” của tinh thần sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” đó, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được HÊGHEN gọi là tinh thần tuyệt đối. Có thể nói cái mới trong hệ thống triết học của ông là phương pháp biện chứng duy tâm; ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối là một quá trình phát triển không ngừng, phương pháp biện chứng về ý niệm tuyệt đối là cơ sở đầu tiên và là nguồn gốc của mọi tồn tại. Tuy nhiên, nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lí, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống triết học duy tâm của ông lại phủ nhận tính chất khác quan của những nguyên nhân nội tại, vốn có của sự phát triển tự nhiên và xã hội; như vậy biện chứng ở đây mới chỉ dừng lại ở hình thức biện chứng duy tâm, biện chứng bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới. Đó chính là sự mâu thuẫn giữa phép biện chứng và hệ thống triết học duy tâm của HÊGHEN, đây cũng là tiền đề để triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên trình độ mới của phép biện chứng duy vật hiện đại. Câu 2: Trình bày nội dung, cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện và vai trò của nguyên tắc đó trong hoạt động nhận thức / thực tiễn. Ví dụ phân tích. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lí luận cuả nguyên tắc toàn diện. Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những nghi vấn về sự tồn tại của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và nếu có thì nhân tố nào quy định sự liên hệ giữa chúng đã có những quan điểm khác nhau. Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Có chăng thì chỉ là những liên hệ bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Chủ nghĩa Duy tâm thì lại thừa nhận có mối liên hệ phổ biến, nhưng họ lại cho rằng cái quy định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên như thần linh, thượng đế, là cảm giác hay là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới. Trái lại, chủ nghĩa Duy vật biện chứng cho rằng, thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành vừa tồn tại độc lập, tách biệt nhau nhưng vùa lại có sự liên hệ, quy định, tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó, Chủ nghĩa Duy vật biện chứng khẳng định, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa nhiều các yếu tố, các mặt hay quá trình khác của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nahu. Bản chất, tính quy luật của sự vât, hiện tượng cũng chỉ được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng và sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác. Quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến là quan điểm duy vật, nó coi mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không do ai sắp đặt, sáng tạo ra. Mối liên hệ còn mang tính phổ biến, thể hiện thứ nhất là bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong cả thế giới tự nhiên và xã hội cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ, ví dụ như xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Mặt biểu hiện thứ hai đó là mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào thì cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Mối liên hệ còn mang tính đa dạng, mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Mỗi loại mối liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. có thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ bên ngoài và mối liên hệ bên trong; mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu; mối liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp. Sự phân chia trên chỉ mang tính tương đối vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một hình thức, một mắt xích, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến; chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy vào phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên sự phân chia này lại rất cần thiết vì qua đó sẽ xác định được vị trí và vai trò trong sự vận động và phát triển của sự vật. Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin đã rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức; khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ mà đã vội vàng đưa ra kết luận về bản chất hay tính quy luật của chúng. Các sự vật hiện tượng trong thế giới luôn luôn liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, do vậy trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự vật trong mối liên hệ hữu cơ giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó, trong mối liên hệ qua lại với các sự vật khác kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp, phải tính đến mọi mối liên hệ, nghĩa là phải đứng trên quan điểm toàn diện, chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Bên cạnh đó, các sự vật, hiện tượng còn có rất nhiều mối liên hệ, các mối liên hệ có vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, khi nghiên cứu sự vận động, phát triển của sự vật cần dựa vào thực tiễn cụ thể để tiến hành phân loại các mối liên hệ để thấy rõ nội dung, vai trò, vị trí của từng mối liên hệ và từ đó có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của cong người, đồng thời tránh được những quan điểm “cào bằng” coi vị trí các mối liên hệ là như nhau. Điều này có nghĩa nguyên tắc toàn diện không đồng nghĩa với việc xem xét dàn trải, liệt kê các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng mà đòi hỏi cần làm sáng tỏ cái cơ bản, cái quan trọng nhất. Ví dụ phân tích: Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò rất quan trọng vào sự tăng trưởng, phát triển chung của nền kinh tế các nước đang phát triển, cụ thể là Việt Nam những năm vừa qua. Nguồn vốn này là đã trở thành nguồn lực bù đắp sự thiếu hụt tiết kiệm, ngoại tệ, thu nhập và quản lí đối với các nước tiếp nhận. Đối với Việt Nam, chúng ta đang thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước, chúng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế nhằm huy động tối đa những nguồn lực bên trong và bên ngoài để phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước. Tác động tích cực và thành quả đã đạt được: Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN), vốn ĐTNN đã không ngừng tăng về cả số lượng mà ngày càng xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất, đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2001 -2007 chiếm khoảng 16%. Tốc độ tăng trưởng của khối công nghiệp có ĐTNN tăng trưởng bình quân 42,5% cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô…. Bên cạnh đó, ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ, hiện đại. Cùng với đó là mức đóng góp vào ngân sách quốc gia ngày càng gia tăng và có tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán và mở rộng nguồn thu ngoại tệ. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này tăng nhanh và cao hơn so với mức bình quân cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu cả nước nhất là các mặt hàng dầu khí, hàng điện tử, sản phẩm da giày, may mặc…. Cuối cùng phải kể đến vai trò to lớn của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là đã góp phần quan trọng vào việc mục tiêu giải quyết việc làm, đến nay, khu vực này đã tạo ra hơn 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác. Cùng với những lợi ích kể trên còn phải kể đến lợi ích từ những kinh nghiệm quản lí, khả năng kinh doanh, kỹ năng công nghệ thông qua quá trình chuyển giao. Những tác động tiêu cực: Để đánh giá một cách toàn diện về vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh những ưu điểm trên thì việc đánh giá những tác động tiêu cực là rất cần thiết. Thứ nhất, mặc dù tác động ban đầu của vốn ĐTNN là làm tăng ngoại tệ nhưng về lâu dài lại có thể làm giảm thu nhập ngoại tệ trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn do tình trạng xấu đi vì nhập khẩu quá mức sản phẩm trung gian, hàng hóa vốn; do việc mang lợi nhuận về nước đầu tư… Thứ hai đó là xét về mặt lợi ích công cộng, tuy khu vực ĐTNN đóng góp một khoản khá lớn vào thuế kinh doanh nhưng đóng góp của họ lại thấp hơn đáng kể so với mức đáng lẽ ra họ phải nộp do việc miễn giảm thuế, giá chuyển nhượng, chiết khấu đầu tư quá mức… Thứ ba, những tác động tiêu cực về mặt xã hội như vẫn đề bất bình đẳng trong thu nhập, gây ra xu hướng xấu đi sự mất cân đối giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế hay các cơ hội kinh tế giữa nông thôn và thành thị. Ngoài ra, với lợi thế về vốn, nguồn lực, khả năng kinh doanh, công nghệ thì khu vực có vốn ĐTNN có thể gây ra sự cạnh tranh không tương xứng đối với phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Cuối cùng là ở khía cạnh chính trị, các công ty đa quốc gia có thể kiểm soát tài sản và việc làm trong nước, gây ảnh hưởng đến các chính sách tại tất cả các cấp. Từ những tác động của nguồn vốn đầu tư nước ngoài như đã phân tích, để tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này cần đưa ra những định hướng, chiến lược và giải pháp cụ thể để chúng ta luôn chủ động trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này, giữ vững tiêu chí: nguồn vốn nước ngoài là điều kiện cần thiết, quan trọng nhưng nguồn vốn trong nước là điều kiện quyết định, chủ động. Các định hướng đề ra như sau: 1. Tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của chủ trương thu hút FDI 2. Tập trung thu hút FDI vào những ngành, nghề, lĩnh vực có lợi thế so sánh của nước ta với các nước khác 3. Khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ 4. Chuyển đối tác đầu tư 5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tưe trực tiếp nước ngoài Giải pháp thu hút FDI: 1. Mở rộng hình thức thu hút FDI, quy hoạch thu hút FDI 2. Cải tiến quy chế đầu tư vào các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam 3. Về thủ tục hành chính + Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư + Đơn giản hoá thủ tục hải quan + Giáo dục pháp luật cho lao động trong các doanh gnhiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài + Thực hiện công tác kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài + Thực hiện các biện pháp bảo đảm đầu tư 4. Tu sửa kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội 5. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư 6. Tiếp tục đổi mới chính sách thu hút FDI: chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách lao động, tiền lương, chính sách công nghệ, thị trường… Vấn đề thu hút vốn FDI đối với nền kinh tế Việt Nam là một yêu cầu, đòi hỏi khách quan trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế; dựa trên nguyên tắc toàn diện chúng ta cần phân biệt rõ ràng các nhân tố, điều kiện, các mối liên hệ giữa chúng để tìm ra các biện pháp tác động tích cực nhất. Câu 3: Trình bày những hiểu biết về nhà nước pháp quyền và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền: - Nhà nước pháp quyền có sự ngự trị cao nhất của pháp luật. + Luật pháp là tiêu chuẩn cao nhất, là căn cứ cơ bản nhất, là công cụ quản lý chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân. + Quyền lực của pháp luật vượt trên quyền lực của mọi tổ chức chính trị xã hội hay của mọi cá nhân. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nước nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào. - Quyền lực nhà nước phải thể hiện ý chí và lợi ích của đại đa số nhân dân + Thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực. + Mỗi cá nhân đều là công dân tự do, có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. + Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi xâm hại đến lợi ích của các cá nhân hay tổ chức xã hội. - Nhà nước pháp quyền có sự bảo đảm thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân. + Quyền công dân thuộc về trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà nước thuộc về trách nhiệm của công dân. + Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật của mình, làm phương hại đến lợi ích của công dân, của các tổ chức trong xã hội. Ngược lại, công dân và các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của pháp luật. Ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước pháp quyền đã nêu ở trên cũng có quan niệm cho rằng nguyên tắc “ Tam quyền phân lập” cũng là nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà nước pháp quyền. Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh quyền lực, đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng". Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thực sự của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức, hoạt động của nhà nước phải đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật; nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn và hiệu quả ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân Trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay Nhà nước ta đã ban hành 4 bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ. Đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trong đó quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với thực tiễn các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Từ thực tiễn này, các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng được định hình: Một là: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hai là: Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. Ba là: Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bốn là: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Năm là: Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Sáu là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Như vậy, xuất phát từ bản chất của chế độ, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu, đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền nói chung thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có những đặc trưng riêng thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; không tam quyền phân lập; mọi cách thức tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều có mục đích chung là vì lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, dân tộc và lấy việc phục vụ nhân dân làm mục đích duy nhất và tối cao. - Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện trong điều kiện một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần tập trung vào một số việc sau đây: 1 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 2 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp với yêu cầu mới; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. 4 - Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_tap_triet_hoc_1422_7678.doc