Trong bối cảnh vào cuối thế kỷ XVIII, ở các nước Anh và Pháp, học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này sau khi tích luỹ được một số lớn tiền tệ, giai cấp tư sản tập trung vào phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Song song với đó là sự tồn tại của chủ nghĩa phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phong kiến. Bên cạnh đó, nếu thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, người ta chỉ tập trung vào khâu lưu thông thì thời kỳ này đã chuyển dần sang sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế được đặt ra của quá trình sản xuất vượt ra ngoài giới hạn giải thích của lý thuyết kinh tế trọng thương. Điều này phải có lý thuyết kinh tế soi đường và học thuyết kinh tế cổ điển Anh ra đời mà đại biểu chủ yếu là các nhà kinh tế học William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Trong phạm vi bài này chúng ta chỉ nói đến quan điểm về giá trị lao động của ba nhà kinh tế học cổ điển này.
9 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản Anh - Mác đã kế thừa và phát triển lý luận này như thế nào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản anh. Mác đã kế thừa và phát triển lý luận này như thế nào
Trong bối cảnh vào cuối thế kỷ XVIII, ở các nước Anh và Pháp, học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này sau khi tích luỹ được một số lớn tiền tệ, giai cấp tư sản tập trung vào phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Song song với đó là sự tồn tại của chủ nghĩa phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phong kiến. Bên cạnh đó, nếu thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, người ta chỉ tập trung vào khâu lưu thông thì thời kỳ này đã chuyển dần sang sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế được đặt ra của quá trình sản xuất vượt ra ngoài giới hạn giải thích của lý thuyết kinh tế trọng thương. Điều này phải có lý thuyết kinh tế soi đường và học thuyết kinh tế cổ điển Anh ra đời mà đại biểu chủ yếu là các nhà kinh tế học William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Trong phạm vi bài này chúng ta chỉ nói đến quan điểm về giá trị lao động của ba nhà kinh tế học cổ điển này.
Thứ nhất là quan niệm về giá trị lao động của William Petty ( 1623-1687 ). Ông là một con người học rộng biết nhiều và sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trình độ tiến sĩ vật lý, là người phát minh ra máy móc, là đại địa chủ đồng thời là nhà đại công nghiệp. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, gọi là khoa học tự nhiên tức là tôn trọng và thừa nhân các quy luật khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sự vật hiện tượng. Về lý thuyết giá trị lao động, ông có công nêu ra nguyên lý của giá trị lao động. Ông đưa ra ba phạm trù về giá cả hàng hoá trong tác phẩm “ bàn về thuế khoá và lệ phí “. Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị.
Thế nào là giá cả tự nhiên? Ông viết “ một người nào đó, trong thời gian lao động khai thác được 1ounce bạc và cùng thời gian đó sản suất được 1 barrel lúa mỳ thì 1 ounce bạc được coi là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Nêu nhờ mỏ quặng phong phú tài nguyên hơn thì với thời gian lao động nói trên, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc này là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Như vậy, giá cả tự nhiên ( giá trị hàng hoá ) là do lao động hao phí của người sản suất tạo ra và vì vậy giá cả tự nhiên quyết định giá trị sản phẩm.
Nếu giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết “ tỷ lệ giữa lúa mỳ và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên “. Ông cho rằng, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu trên thị trường.
Về giá cả chính trị, ngoài yếu tố lao động hao phí nó còn phụ thuộc vào quan điểm chính trị và bối cảnh xã hội vì vậy nó là cơ sở quyết định giá cả thị trường của sản phẩm. Vì vậy, chi phí lao động trong gia cả chính trị cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên ( giá trị ) bình thường.
Ông cũng đạt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình của nhiều năm để ta loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Như vậy, ông là người đầu tiên thấy được cơ sở của giá cả tự nhiên ( giá trị ) là lao động hao phí, thấy được mối quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Có thể nói ông là người đầu tiên đặt nền móng cho lý luận giá trị lao động. Nhưng ông vẫn lẫn lộn hay chưa phân biệt được lao động tạo ra giá trị sử dụng và lao động tạo ra giá trị. Mặt khác ông còn đưa ra luận điểm là “ lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải “. Về phương diện của cải vật chất, đây là sáng kiến vĩ đại của ông. Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị lao động khi kết luận “ lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của giá cả mọi vật phẩm “ tức là lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị ( giá cả tự nhiên ). Ông đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng với lao động có tư cách là nguồn gốc của giá trị ( tức là ông đã đồng nhất lao động cụ thể với lao động trừu tượng. Đứng về phương diện giá trị thì đây là quan diểm sai lầm. Điều này là mầm mống của các lý thuyết nhân tố sản xuất tạo ra giá trị sau này.
Tuy nhiên ông vẫn chưa phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi và giá cả. Ông vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương nên ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị trong lao động khai thác vàng và bạc, chính vì vậy mà ông khẳng định rằng muốn xác định giá trị của các vật phẩm thì phải đem so sánh lao động hao phí làm ra nó và hao phí làm ra bạc và vàng ( ông là người lấy bạc và vàng làm chất liệu cho tiền tệ ). Ông chỉ thừa nhận lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị hàng hoá khác được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc.
Thứ hai, phải nói tới lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith (1723-1790 ). So với William Petty và trường phái trọng nông thì lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith có một bước tiến đáng kể. Ông đã chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị trao đổi và giá trị sử dụng đồng thời khẳng định: giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm cho rằng tính ích lợi quyết định giá trị trao đổi mà A.R.J. Turgot ủng hộ. Khi phân tích giá trị hàng hoá, ông cho rằng giá trị được biểu hiện trong giá trị trao đổi hàng hoá, trong quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản suất hàng hoá phát triển, nó được biểu hiện ở tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá, trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn phức tạp sẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn hay không phức tạp.
Ông đưa ra hai định nghĩa về giá cả: giá cả tự nhiên ( giá trị hàng hoá ) và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả tự nhiên là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Ông cho rằng, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho thanh toán về địa tô, tiền lương công nhân, lợi nhuận cho tư bản được chi phí cho khai thác, chế biến, đưa ra thị trường thì có thể nói hàng hoá được bán với giá cả tự nhiên, còn giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán gọi là giá cả. Nó có thể cao hay thấp hơn hoặc trùng với giá cả tự nhiên. Theo ông giá cả tự nhiên mang tính chất khách quan còn giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ngoài giá cả tự nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác.
Tuy nhiên lý thuyết về giá trị lao động của Adam Smith còn nhiều hạn chế. Ông nêu lên hai định nghĩa:
+ Thứ nhất: giá trị do lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá quyết định, lao động là thước đo thực tế của giá trị. Với định nghĩa này ông là người đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động.
+ Thứ hai: ông cho rằng giá trị do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định. Đây là điều luẩn quẩn và sai lầm của ông. Từ đó ông cho rằng, giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương công với lợi nhuận và địa tô. Ông cho rằng, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào. Tư tưởng này xa rời lý thuyết giá trị lao động. Về kết cấu giá trị hàng hoá ông xem thường tư bản bất biến C, coi giá trị chỉ có V+m.
Thứ ba, là David Ricardo ( 1772-1823 ), trong lý thuyết giá trị lao động cũng như các lý thuyết khác, D.Ricardo dựa vào lý thuyết của A.Smith, kế thừa và phát triển. Ông phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ một số hàng hoá khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi còn đại đa số hàng hoá khác thì giá trị do lao động quyết định.
Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối và được biểu hiện ở một số lượng nhất định hàng hoá khác nên D.Ricardo đặt ra vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết tinh trong hàng hoá, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị tuyệt đối. Ông là người đầu tiên nhân thức được giá trị trao đổi được quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người chứ không phải là lao động hao phí cá biệt, như vậy ông đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội, ông cho rằng lao động xã hội cần thiết quyết định giá trị hàng hoá, song lại cho rằng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
D.Ricardo xem xét lại lý luận giá trị của A.Smith, gạt bỏ những chỗ thừa và mâu thuẫn trong lý thuyết kinh tế của A.Smith. Trong hai định nghĩa của A.Smith, D.Ricardo cho rằng “ giá trị do lao động hao phí quyết định là đúng “ còn “ giá trị lao động mà người ta có thể mua được hàng hoá này quyết định “ là không đúng. Theo ông, không chỉ trong ngành sản xuất hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng, cơ cấu gia trị hàng hoá phải là C+V+M chứ không thể loại C ra khỏi hàng hoá như A.Smith được. Tuy nhiên ông vẫn chưa phân tích được sự dịch chuyển C vào sản phẩm diễn ra như thế nào. Ông đã có ý định quy lao động giản đơn và lao động phức tạp rồi quy lao động giản đơn thành lao động phức tạp.
Phương pháp nghiên cứu giá trị của ông còn mang tính siêu hình. Ông coi giá trị là phậm trù vĩnh viễn. Đó là thuộc tính của mọi vật, ông không nhìn thấy mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị vì chưa có lý thuyết tính hai mặt của lao động, ông còn chịu ảnh hưởng của thuyết “ tính khan hiếm tạo ra giá trị “, ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá với giá cả sản xuất, mặc dù ông đã phát hiện ra xu hướng bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận.
Những cống hiến về thuyết giá trị lao động của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
Phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi
Xác định lượng giá trị đo bằng thời gian lao động
Đã chú ý tới sự khác nhau giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp trong việc xác định lượng gía trị hàng hoá nhưng còn sơ lược.
Thấy được mối quan hệ giữa giá cả tự nhiên và giá cả thị trường ( tức là mối quan hệ giữa giá trị với giá cả thị trường của hàng hoá ).
Những hạn chế về thuyết giá trị lao động của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
Chưa biết đến tính hai mặt của lao đông sản xuất hàng hoá
Nặng về mặt lượng, chưa chú ý tới mặt chất của giá trị
Chưa xây dựng đầy đủ và chính xác lượng giá trị hàng hoá
Chưa phân biệt được giá trị với các hình thức của giá trị
Đến chủ nghĩa mác, Mác đã kế thừa và phát triển các học thuyết của trường phái kinh tế cổ điển Anh, loại bỏ những nhân tố sai lầm, siêu hình, giữ lại những nhân tố đúng và đưa ra phương pháp nghiên cứu khoa học nhất là việc vận dụng phép biện chứng. Trên cơ sở nghiên cứu có phê phán những di sản của trường phái cổ điển, Mác đã sáng lập ra học thuyết khoa học đúng đắn về giá trị lao động. Học thuyết này là điểm xuất phát để phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư và mở ra một bước ngoặt cách mạng trong khoa học kinh tế nói chung.
Tính chất hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá do C.Mác vạch ra có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng để phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ có quan niệm về bản chất hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá, Mác đã loại bỏ được sự lầm lẫn giữa giá trị của hàng hoá và giá trị sử dụng của hàng hoá trong kinh tế chính trị cổ điển tư sản, đông thời xác định rằng, chúng là một thực thể thống nhất giữa những mặt đối lập trong hình thái hàng hoá của sản phẩm lao động.
Mác chỉ ra rằng, giá trị là biểu hiện của các quan hệ giữa con người với con người hình thành trong quá trình cùng nhau lao động, và các quan hệ này được biểu hiện ở sự trao đổi sản phẩm lao động ( do đó chúng trở thành hàng hoá ) trên thị trường, giá trị là hiện thân của lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá và chỉ của lao động mà thôi. Bản thân các tư liệu sản xuất là sản phẩm của lao độngvà có thể chuyển dần giá trị sang hàng hoá bằng cách sử dụng các tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra một giá trị không lớn hơn gia trị chứa đựng trong bản thân chúng. Cho nên chúng không thể là nguồn gốc của giá trị mới, cả đất đai cũng không tạo ra giá trị. Các nguồn tài nguyên khác cũng chỉ là địa bàn của lao động, là một tư liệu lao động tham gia vào quá trình tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Thực thể giá trị của hàng hoá không chỉ đơn giản là hao phí năng lượng thần kinh, bắp thịt hiểu theo nghĩa sinh lý mà là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá, tức là một hình thái lịch sử nhất định của lao động xã hội gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Đại lượng của giá trị được xác định không phải bằng thời gian lao đông cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Tất cả những điều này chứng minh rằng: giá trị không phải là thuộc tính tự nhiên mà là thuộc tính xã hội của hàng hoá, nó biểu hiện các quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua các vật phẩm lao động của họ. Chính V.I.Lenin đã chỉ rõ: phàm ở chỗ nào các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật ( hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khác ), thì ở chỗ đó, Mác tìm thấy quan hệ giữa người với người. Sự trao đổi hàng hoá thể hiện mối liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian.
Tóm lại, các học thuyết gía trị lao động của các nhà kinh tế học trường phái kinh tế cổ điển Anh đã có những đóng góp không nhỏ trong phân tích các khái niệm và các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá. Trên cơ sở kế thừa có phê phán của học thuyết này, C.Mác lần đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của sản xuất hàng hoá, tạo thành một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học. Bên cạnh đó, với lý luận xuất phát là lý luận giá trị vân dụng vào trong điều kiện chủ nghĩa tư bản Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về tích luỹ tư bản, học thuyết về tái sản xuất ... từ đó làm sáng tỏ nhiều vấn đề kinh tế có liên quan đến việc xác định bản chất của chủ nghĩa tư bản cũng như xác định xu hướng vận động của nó. Cũng trên cơ sở các quan điểm mà Mác đã phát triển và đưa ra hàng loạt các quan niệm chuẩn xác về các quy luật trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hình thành nên học thuyết Mác mà giá trị của nó vô cùng to lớn trong kho tàng trị thức của nhân loại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60026.DOC