Các mục tiêu và chiến lược của một tổ chức kinh doanh: một tổchức kinh doanh có thể đề ra nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng trong nội dung môn học này chúng ta coi việc tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất và sẽ được xem xét kỹ lưỡng nhất. Cũng vì vậy chúng ta không xem xét kế toán trong các tổ chức phi lợi nhuận.
12 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 5
Nội dung tài liệu Ôn tập Nguyên lý kế toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 1 30/08/2004
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Thành phố Hồ Chí Minh
Kỳ học tháng Tám 2004
Nguyên lý Kế toán
ÔN TẬP
Môn học này chỉ ngắn gọn trong vòng 4 tuần, nên chúng ta phải theo sát vào những mục
tiêu đã đề ra. Trong từng nội dung, chúng ta phải nắm được bản chất của vấn đề từ góc độ
quản lý, thay vì thuộc lòng các quy trình kế toán như một kế toán viên chuyên nghiệp.
Các bài tập có thể dài hơn so với kỳ vọng của các anh chị, nhưng đây là cách tiếp cận
dành cho một lớp học trong đó có những người đã rất thông thạo kế toán trong khi một số
người khác mới làm quen lần đầu tiên. Sau đây là tóm tắt lại một số mục tiêu chúng ta đã
đi qua:
Mục tiêu thứ nhất:
Xem xét quy trình hoạt động của một công ty dưới góc độ tài chính
Chương 1 cuốn Kế toán Tài chính của Stickney & Weil trình bày tương đối tốt nội dung
này. Yêu cầu các anh chị phải nắm được các nội dung sau:
1. Các mục tiêu và chiến lược của một tổ chức kinh doanh: một tổ chức kinh doanh có
thể đề ra nhiều mục tiêu khác nhau, nhưng trong nội dung môn học này chúng ta coi
việc tối đa hóa lợi nhuận cho chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất và sẽ được xem
xét kỹ lưỡng nhất. Cũng vì vậy chúng ta không xem xét kế toán trong các tổ chức phi
lợi nhuận.
2. Các loại hình doanh nghiệp: Tuy có nhiều loại đơn vị hạch toán khác nhau trong xã
hội, môn học này tập trung vào nhóm công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó gồm:
• Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu
• Công ty TNHH với hai hay nhiều chủ sở hữu
• Công ty cổ phần
• Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu trên thị trường
Dù mang tên “TNHH” hay không, cả ba loại hình này đều là trách nhiệm hữu hạn với
hàm ý là những người chủ sở hữu không phải chịu trách nhiệm nhiều hơn số vốn
mình có trong công ty. Nói cách khác, công ty và chủ sở hữu được tách biệt thành
những pháp nhân riêng biệt. Nếu tình huống xấu nhất xảy ra, chủ sở hữu chỉ có thể
mất số vốn đã góp vào công ty, còn những tài sản của riêng chủ sở hữu sẽ không bị
ảnh hưởng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 2 30/08/2004
3. Mọi hoạt động của một công ty có thể phân vào ba nhóm. Sơ đồ 1.1 của chương 1 thể
hiện tóm tắt ba nhóm này:
• Hoạt động huy động vốn
• Hoạt động đầu tư
• Hoạt động sản xuất kinh doanh
4. Hoạt động huy động vốn: là những hoạt động đầu tiên để hình thành doanh nghiệp.
Luôn luôn người chủ doanh nghiệp phải đi đầu trong việc góp một lượng vốn của
mình vào, sau đó mới có thể vay thêm từ các nguồn khác. Tổng vốn chủ sở hữu và
vốn vay tạo thành nguồn vốn và được thể hiện trên bảng cân đối.
(Lưu ý: Định nghĩa của huy động vốn bao gồm cả huy động vốn ngắn hạn như nhận
ứng trước của khác hàng, mua nguyên liệu trả sau…Trong báo cáo cụ thể, những
thay đổi của nợ ngắn hạn thường được xét vào nhóm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chúng ta sẽ xét kỹ hơn trong báo cáo ngân lưu).
5. Hoạt động đầu tư: công ty sử dụng nguồn vốn để mua đất đai, nhà xưởng, thiết bị, bản
quyền. Mua cổ phần hay trái phiếu của các công ty khác cũng được coi là hoạt động
đầu tư. Về tổng quan, người ta coi hoạt động đầu tư bao gồm cả việc duy trì một
lượng tài sản lưu động: tiền mặt và tương đương tiền mặt, hàng trong kho, khoản phải
thu, ứng trước cho các nhà cung cấp... Kết quả của hoạt động đầu tư tạo thành tài sản
và được thể hiện ở phần tài sản trên bảng cân đối.
(Lưu ý: về tổng quan thì việc tạo ra tài sản được gọi là đầu tư. Tuy nhiên trong các
báo cáo tài chính cụ thể thì chỉ mua bán tài sản cố định mới được xếp vào nhóm hoạt
động đầu tư. Việc tạo ra tài sản lưu động được phân vào nhóm hoạt động sản xuất
kinh doanh.)
6. Thực hiện sản xuất kinh doanh: đây là hoạt động để tạo ra lợi nhuận của công ty, bao
gồm mua hàng hóa, nguyên liệu, sản xuất chế biến, bán hàng, trả lương nhân công,
quảng cáo tiếp thị, nghiên cứu phát triển, đào tạo, và quản lý công ty. Kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện trên báo cáo thu nhập của công ty.
7. Báo cáo kết quả các hoạt động: Hình 1.2 của chương 1 thể hiện tóm tắt các hoạt động
được thể hiện trên những phần khác nhau của bảng cân đối và báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh. Nếu các anh chị có thể nắm vững sự khác biệt giữa hình 1.1 với
hình 1.2, các anh chị đã hiểu được mối liên quan giữa hoạt động kinh doanh và công
tác kế toán.
Mục tiêu thứ hai
Xem xét các nguyên tắc căn bản của kế toán
Việc học tập các nguyên tắc hay các quy ước thường đòi hỏi ứng dụng vào nhiều tình
huống cụ thể, vì vậy trong quá trình thực hành về sau các anh chị sẽ có dịp củng cố thêm
trên lĩnh vực này. Những kế toán viên chỉ đơn thuần áp dụng các quy ước. Những nhà
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 3 30/08/2004
quản lý phải hiểu được ý nghĩa sâu xa của các quy ước, để có quyết định đúng đắn trong
việc áp dụng.
Kế toán tài chính sử dụng 9 quy ước căn bản
(1) Quy ước kế toán kép (dual-aspect): mọi giao dịch kinh tế phải được ghi làm hai
tác động (có khi hơn hai tác động), kế toán chia làm hai bên Nợ (bên trái) và Có
(bên phải) và hai bên này trong mọi tình huống phải cân nhau.
(2) Quy ước dùng tiền làm đơn vị đo lường (money-measurement): dù doanh nghiệp
có thể sử dụng nhiều loại tài sản và nhiều loại tiền tệ, kế toán thống nhất báo cáo
mọi giá trị bằng một loại tiền thống nhất.
(3) Quy ước đơn vị hạch toán (entity): kế toán tách doanh nghiệp thành một pháp
nhân tách biệt khỏi các chủ doanh nghiệp và chỉ xem xét hoạt động, tài sản và thu
nhập của doanh nghiệp
(4) Quy ước hoạt động liên tục (going-concern): kế toán giả định doanh nghiệp sẽ tồn
tại liên tục và mãi mãi (ít nhất là trong một thời gian đủ dài để có thể coi là mãi
mãi.)
(5) Quy ước giá thành hay giá gốc (historical cost): các giá trị của tài sản được ghi
nhận theo giá gốc (giá mua ban đầu), ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được
ghi chú riêng.
(6) Quy ước thận trọng (conservatism): kế toán phải ghi nhận sự việc theo quan điểm
thận trọng (không lạc quan). Ví dụ như phải ghi nhận tổn thất khi có khả năng xảy
ra, nhưng chỉ ghi nhận lãi khi đã chắc chắn có được. Qui ước này thường dùng để
tính các khoản dự phòng.
(7) Quy ước ghi nhận sự việc đáng kể (materiality): kế toán sẽ ghi nhận đơn giản hóa
những sự việc không đáng kể. Ví dụ như một tài sản có thể tồn tại và mang lại lợi
ích kinh tế trong nhiều năm, nhưng nếu giá trị không đáng kể thì hạch toán thành
chi phí ngay khi mua, không cần hạch toán vào tài sản.
(8) Quy ước về thời điểm ghi nhận (realization): kế toán có những qui định nhất quán
về thời điểm ghi nhận doanh thu, khi có những bằng chứng xác thực doanh thu
này.
(9) Quy ước ghi nhận chi phí tương xứng với doanh thu (matching): chi phí liên quan
đến sản phẩm chỉ ghi nhận vào thời điểm phát sinh doanh thu từ sản phẩm đó (ví
dụ: chi phí giá vốn hàng bán chỉ ghi nhận khi bán hàng, mặc dù hàng đã mua về
trước đó rất lâu), chi phí liên quan đến thời kỳ chỉ ghi nhận vào đúng thời kỳ báo
cáo (ví dụ như chi phí thuê nhà, bảo hiểm…)
Một số quy ước không phải là tuyệt đối mà phải xem xét vận dụng trong tình huống cụ
thể. Đôi khi chúng ta gặp tình thế hai quy ước mâu thuẫn nhau, việc xử lý tùy thuộc quan
điểm và năng lực của các nhà quản lý.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 4 30/08/2004
Ví dụ 1: theo quy ước (5) thì tài sản phải được thể hiện theo giá mua vào, nhưng tài sản
“chứng khoán ngắn hạn” lại thường xuyên được điều chỉnh lại theo thời giá trên thị
trường”.
Ví dụ 2: theo quy ước (8) thì doanh thu chỉ được ghi nhận khi đã hoàn thành công việc
giao hàng hay thực hiện dịch vụ, nhưng trong một công trình xây dựng kéo dài nhiều năm
thì giữa chủ đầu tư và nhà thầu thường thỏa thuận một phương án nghiệm thu từng phần
để nhà thầu có thể ghi nhận doanh thu cho mỗi năm làm việc.
Hai phương thức kế toán trái ngược nhau
• Phương thức kế toán trên có sở tiền mặt (cash accounting)
• Phương thức kế toán trên cơ sở thực tế phát sinh (accrual accounting)
Phương thức kế toán tiền mặt có vẻ đơn giản và gần gũi hơn với những người quen với
việc quản lý tài chính cá nhân hay gia đình. Nhưng kế toán doanh nghiệp hầu hết sử dụng
phương thức “thực tế phát sinh”. Những tổ chức không áp dụng phương thức này gồm
các văn phòng chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận, và một số trường hợp đặc biệt của
doanh nghiệp. Trong phạm vi môn học chúng ta sẽ không xem xét kỹ nhóm này.
Doanh nghiệp không áp dụng kế toán trên cơ sở tiền mặt vì những nguyên nhân sau:
• Kế toán tiền mặt không thể hiện được mối liên hệ giữa chi và thu, do vậy vi phạm
quy ước (9).
• Kế toán tiền mặt không ghi nhận được thời điểm quan trọng nhất của quy trình
kinh doanh, đó là khi giao hàng hay hoàn thành dịch vụ cho khách hàng. Nhìn
chung kế toán tiền mặt làm cho doanh thu bị ghi chậm lại và chi phí được ghi
nhận sớm hơn.
• Điểm quan trọng nhất, kế toán tiền mặt không thể hiện được sự thay đổi của vốn
chủ sở hữu.
Mục tiêu thứ ba
Sự hình thành và cấu trúc của các báo cáo tài kế toán
1. Bảng cân đối kế toán
Là bản báo cáo đầu tiên trong ba báo cáo chính, nhưng cũng là bản trên thực tế ít được coi
trọng nhất. Nguyên nhân chủ yếu là trên thị trường giá cả luôn biến động, trong khi theo
qui ước (5) thì hầu hết các tài khoản trong bảng cân đối không được điều chỉnh theo giá
thị trường.
Kế toán viên ghi các tài sản theo mã số qui định, các nhà kinh tế ghi nhận theo định nghĩa
kinh tế. Chúng ta phải nắm được những định nghĩa kinh tế này.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 5 30/08/2004
Tài sản lưu động
- Tiền mặt: tài khoản này bao gồm tiền mặt trong két, ngân phiếu, tiền gửi trong tài
khoản ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…(Luật kế toán Việt Nam quy định vàng bạc và
kim loại quý phải được xếp chung vào tài khoản tiền mặt)
- Chứng khoán đầu tư ngắn hạn: trái phiếu hay cổ phiếu công ty mua về và dự định
giữ trong thời gian tương đối ngắn, khi cần có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt
trong thời gian ngắn.
- Khoản phải thu: các khoản khách hàng nợ công ty khi mua hàng hay dịch vụ thông
thường của công ty. Khi nói hàng hóa hay dịch vụ thông thường chúng ta hiểu là việc
bán thanh lý tài sản cố định của công ty phải được ghi riêng.
- Nợ phải thu: các khoản công ty cho khách hàng nợ theo hợp đồng vay riêng biệt tách
rời khỏi hợp đồng mua hàng.
- Lãi vay phải thu: thể hiện lãi phát sinh từ tài sản của công ty như nợ và trái phiếu
nhưng đến ngày báo cáo công ty vẫn chưa nhần được tiền mặt.
- Hàng trong kho: hàng hóa công ty mua về để bán trong qui trình kinh doanh thông
thường của công ty. Hàng trong kho cũng có thể bao gồm các hàng công ty mua về để
tiêu dùng nhưng chưa sử dụng đến, ví dụ như giấy bút, phụ tùng máy, xăng dầu…
Những hàng hóa mua về không phải để bán phải được ghi chú riêng.
- Nguyên liệu trong kho: các nguyên liệu công ty mua và nhập kho để sử dụng trong
sản xuất.
- Hàng sản xuất dở dang (bán thành phẩm): hàng đang nằm trên các công đoạn khác
nhau của dây chuyền sản xuất, nhưng chưa trở nên thành phẩm hoàn chỉnh.
- Hàng thành phẩm: hàng đã sản xuất hoàn chỉnh, nhập kho chờ bán. Đối với công ty
thương mại đây chính là hàng tồn kho.
- Chi phí trả trước: thể hiện những khoản công ty trả trước cho tiền thuê nhà, tiền bảo
hiểm, hay những dịch vụ khác trong tương lai.
- Ứng trước cho nhà cung cấp: thể hiện phần tiền công ty đã trả cho nhà cung cấp để
mua hàng nhưng đến thời điểm báo cáo vẫn chưa nhận được hàng.
Tài sản cố định
- Đầu tư chứng khoán dài hạn: những cổ phiếu hay trái phiếu mà công ty mua về với
dự định giữ trong thời hạn trên một năm. Lưu ý khoản này áp dụng theo qui ước (5)
của kế toán, nghĩa là không điều chỉnh giá trị theo giá thị trường.
- Đất đai: thể hiện giá gốc của đất đai khi công ty mua về.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 6 30/08/2004
- Thiết bị: các thiết bị công ty sử dụng trong kinh doanh như xe máy, lò hơi, cần
cẩu…Thiết bị được tính theo giá gốc bao gồm tiền mua, vận chuyển, lắp đặt và bảo
hành.
- Nhà xưởng: gồm văn phòng, xưởng, kho, cửa hàng… do công ty sở hữu. Kế toán
quản trị phải phân định rõ từng khoản để xem khoản nào được hạnh toán vào giá
thành sản phẩm.
- Trang bị văn phòng: được tách riêng khỏi thiết bị để tiện việc hạch toán giá thành
sản phẩm.
- Tài sản thuê mua tài chính: đây là một ngoại lệ khi công ty thể hiện những tài sản
công ty không có sở hữu về mặt pháp lý, nhưng có hợp đồng thuê dài hạn. Chúng ta
sẽ xét sau này những hợp đồng nào được coi là hợp đồng thuê mua tài chính.
- Tài sản vô hình: tài khoản này bao gồm bằng sáng chế hay bản quyền do công ty
mua về. Khi công ty chúng ta mua một công ty khác với số tiền cao hơn tổng trị giá
tài sản của công ty đó – ví dụ như nhờ uy tín hay những hợp đồng công ty đó đang có
- phần tiền vượt quá giá trị tài sản phải được ghi vào tài sản vô hình.
- Khấu hao: trừ chứng khoán và đất, các tài sản khác phải được khấu hao định kỳ để
ghi nhận phần giá trị giảm đi của tài sản và chuyển tương ứng sang chi phí trong kỳ.
Tài khoản “khấu hao tích lũy” trên bảng cân đối thể hiện tổng khấu hao của tài sản từ
khi mua về cho đến ngày báo cáo. Đây là một tài khoản nghịch (contra account) với
nghĩa là tuy nằm chung nhóm với tài sản nhưng khi giá trị khấu hao tăng lên thì giá trị
tài sản giảm đi. Khi một tài sản được thanh lý, cả tài sản và khấu hao kèm theo biến
mất khỏi bảng cân đối.
Trách nhiệm nợ ngắn hạn
- Khoản phải trả: tài khoản này thể hiện nợ công ty phải trả cho người cung cấp hàng
hóa hay dịch vụ thông thường. (Nợ phát sinh do mua tài sản cố định phải được ghi
riêng.)
- Nợ phải trả: khoản nợ công ty phải trả cho hợp đồng vay riêng biệt với hợp đồng
mua hàng.
- Lãi phải trả: thông thường khi công ty nợ tiền, các khoản lãi vay phát sinh nhưng
chưa thanh toán được thể hiện tách riêng khỏi phần nợ gốc.
- Lương phải trả và thuế phải trả: là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ nhưng
đến ngày báo cáo vẫn chưa chi tiền mặt để thanh toán.
- Ứng trước của khách hàng: công ty có thể nhận tiền trước để sẽ giao hàng hay thực
hiện một dịch vụ trong tương lai. Tài khoản này ghi nhận số tiền công ty đã nhận
được, không ghi theo giá trị của hàng hóa hay dịch vụ sẽ phải giao.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 7 30/08/2004
- Phần ngắn hạn của nợ dài hạn: để tính chính xác khả năng thanh khoản ngắn hạn,
thông thường các công ty chuyển phần nợ dài hạn sẽ đến hạn trong vòng một năm
(tính từ ngày báo cáo) lên nhóm nợ ngắn hạn.
Trách nhiệm nợ dài hạn
- Nợ ngân hàng dài hạn: do thường phải thế chấp tài sản nên trong bảng cân đối chúng
ta hay thấy ghi là vay có thế chấp (morgate payable).
- Trái phiếu phải trả: tài khoản này thể hiện trách nhiệm của công ty khi công ty phát
hành trái phiếu để huy động vốn.
- Trách nhiệm theo hợp đồng thuê mua: đây là phần tương ứng với tài sản theo hợp
đồng thuê mua. Công ty cam kết sẽ thanh toán dần số tiền này để đổi lại cho việc
được sử dụng dài hạn một tài sản không do công ty sở hữu.
- Thuế trả chậm: một phần thuế công ty đã thể hiện trong báo cáo thu nhập nhưng sẽ
nộp nhà nước trong tương lai, thường do có sự khác biệt trong phương pháp khấu hao
trong báo cáo tài chính và phương pháp khấu hao khi tính thuế. Phần này tương đối
phức tạp và chúng ta sẽ bàn đến sau.
Vốn chủ sở hữu
- Cổ phiếu ưu đãi (preferred stock): là cổ phiếu có quyền ưu tiên nhận cổ tức trước cổ
phiếu thường. Giá trị cổ tức thường được qui định trước. Tuy nhiên, người giữ cổ
phiếu ưu đãi bị hạn chế một số quyền như quyền bầu cử. Nếu cổ phiếu ưu đãi có thể
chuyển thành cổ phiếu thường sau một thời gian, khi đó có tên là cổ phiếu có thể
chuyển đổi (convertible stock).
- Cổ phiếu thường (common stock): tài khoản này thể hiện số tiền mà cổ đông đã góp
vào công ty. Người giữ “cổ phiếu thường” là chủ nhân thực sự của công ty, làm chủ
toàn bộ giá trị của công ty sau đã trả mọi trách nhiệm của công ty. Tài khoản này
thường được ghi tách ra thành hai tài khoản:
- Vốn góp theo mệnh giá (Par value): Tài khoản này thể hiện số vốn mà cổ đông
góp vào công ty căn cứ theo mệnh giá ghi trên cổ phiếu. Ví dụ như mệnh giá cổ
phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là 10.000 đồng, tuy nhiên mệnh
giá này không liên quan gì đến số tiền thực sự mà cổ đông góp vào công ty.
- Vốn góp trên mệnh giá (APIC – Additional Paid-In Capital): tài khoản này thể
hiện phần chênh lệch giữa số tiền cổ đông thực sự góp vào công ty và số tiền ghi
trên mệnh giá.
- Lợi nhuận giữ lại lũy kế (retained earnings): số lợi nhuận phát sinh trong kỳ có thể
được công ty tách ra hai phần: chi cổ tức cho cổ đông và giữ lại công ty để tái đầu tư.
Tài khoản “lợi nhuận giữ lại” trong bảng cân đối kế toán thể hiện giá trị tích lũy của
toàn bộ lợi nhuận giữ lại trong các kỳ từ khi thành lập công ty.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 8 30/08/2004
- Cổ phiếu ngân quỹ (treasury stock): công ty có thể mua cổ phiếu của các công ty
khác, nhưng cũng có thể mua lại cổ phiếu của chính mình, khi đó giá trị của cổ phiếu
mua về được thể hiện trong một tài khoản đặc biệt là “cổ phiếu ngân quỹ”. Đây là một
tài khoản nghịch (contra account). Nó nằm trong nhóm vốn chủ sở hữu nhưng sự
tăng thêm của tài khoản này làm giảm vốn chủ sở hữu. Kỹ thuật ghi nhận cổ phiếu
ngân quỹ sẽ được thảo luận sau.
2. Báo cáo thu nhập
Ngoài việc ghi nhớ trình tự các dòng trong báo cáo thu nhập, chúng ta cần nắm được về
tổng quan báo cáo thu nhập gồm doanh thu trừ đi các chi phí như sau:
- Doanh thu: có thể là doanh thu bán hàng hay doanh thu do thực hiện dịch vụ. Nếu
tính kỹ lưỡng thì phải trừ đi những khoản dự phòng hàng bị trả lại, hàng phải giảm giá
sau khi bán… Khi đó chúng ta có khái niệm doanh thu ròng.
- Giá vốn hàng bán (GVHB hay COGS): đối với công ty thương mại, giá vốn hàng
bán tương đối đơn giản: chỉ tính giá mua vào và xử lý tồn kho theo các phương pháp
đã được chấp nhận. Giá vốn hàng bán của công ty sản xuất phức tạp hơn và sẽ được
xem xét kỹ sau này.
- Chi phí quản lý: gồm lương gián tiếp, điện nước gián tiếp, chi phí bán hàng và quảng
cáo tiếp thị, đào tạo, tư vấn… Một số quan điểm vẫn chưa được hoàn toàn nhất trí
trong nguyên lý kế toán về cách phân bổ các chi phí này theo thời gian cũng như theo
không gian, và chúng ta sẽ phải thảo luận một số trường hợp cụ thể.
- Chi phí khấu hao: tài khoản “chi phí khấu hao” thể hiện giá trị khấu hao trong kỳ
báo cáo (khác với tài khoản khấu hao lũy kế trên bảng cân đối kế toán). Tùy theo công
ty, chi phí khấu hao có thể được thể hiện ở các vị trí khác nhau trên báo cáo thu nhập.
Khi cần nhấn mạnh giá thành sản phẩm, khấu hao thiết bị nhà xưởng được tính gộp
vào giá vốn hàng bán. Khi cần nhấn mạnh lá chắn thuế, khấu hao sẽ được báo cáo ra
một phần riêng. Khi đó giá vốn hàng bán phải được ghi chú “chưa bao gồm khấu
hao”.
- Chi phí lãi vay: tài khoản “chi phí lãi vay” tính số lãi phát sinh ra từ các khoản vay
nợ của công ty, bất luận công ty đã chi tiền lãi trả cho chủ nợ hay chưa. Khi không chi
tiền mặt nhưng vẫn tính chi phí, lãi vay có giá trị như một lá chắn thuế. Phần tài chính
công ty ở học kỳ sau sẽ thảo luận kỹ về giá trị của lá chắn thuế trong chính sách huy
động vốn.
- Chi phí thuế thu nhập: Thuế thu nhập có được gọi là chi phí hay không thì còn có
những thảo luận khác nhau. Tuy nhiên tài khoản “thuế thu nhập” sẽ là một tỉ lệ phần
trăm nhất định của lợi nhuận trước thuế.
- Các khoản lãi lỗ không thường xuyên: ví dụ điển hình là lãi/lỗ do bán thanh lý tài
sản cố định, số tiền bán thường không bao giờ đúng như giá trị sổ sách. Khoản chênh
lệch phải được báo cáo vào thu nhập để chịu thuế (hoặc để được giảm thuế).
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 9 30/08/2004
- Chúng ta có thể thấy nhiều loại lợi nhuận (hay thu nhập) khác nhau trên báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh như sau:
Doanh thu 800
- Giá vốn hàng bán - 300
Lợi nhuận gộp 500
- Chi phí hoạt động - 200
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh 300
- Các chi phí và lãi khác - 50
Lợi nhuận trước lãi và thuế (EBIT) 250
- Lãi vay - 50
Lợi nhuận truớc thuế 200
- Thuế thu nhập doanh nghiệp - 50
Lợi nhuận ròng 150
- Chia cổ tức - 100
Lợi nhuận giữ lại 50
• Tất cả các tài khoản đều có một chữ T của riêng mình để thể hiện số dư đầu kỳ, tăng
giảm trong kỳ, và số dư cuối kỳ.
• Các tài khoản của bảng cân đối là tài khoản thường xuyên, không bị đóng lại vào
cuối kỳ. Số dư đầu kỳ và cuối kỳ chính là con số thể hiện trên bảng cân đối kế toán
đầu kỳ và cuối kỳ. Các tài khoản này không bao giờ xuất hiện trên báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh.
• Các tài khoản doanh thu và chi phí trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
là tài khoản tạm thời (hay tài khoản trung gian). Cứ cuối mỗi kỳ, các tài khoản này
lại được chuyển về bằng 0 để đóng lại. Sang đầu kỳ mới chúng lại được mở lại với số
dư ban đầu bằng 0. Các tài khoản này không bao giờ xuất hiện trên bảng báo cáo
cân đối kế toán.
4. Báo cáo ngân lưu
Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh chưa thể hiện được toàn
cảnh hoạt động của công ty. Một công ty có thể báo cáo lợi nhuận rất cao, ngay sau đó
tuyên bố phá sản hoặc lâm vào tình trạng tương tự! Điều này đã từng xảy ra nhiều lần trên
thực tế. Có những nguyên nhân sau:
1. Bản cáo cáo thu nhập tuân theo nguyên tắc kế toán theo thực tế phát sinh (accrual
basis). Doanh thu có thể được cáo cáo trước khi nhận được tiền. Đối với chi phí, có thể
tiền mặt đã chi ra nhưng chi phí vẫn chưa được ghi nhận. Vì vậy công ty có thể có doanh
thu cao, chi phí thấp, và lợi nhuận cao, nhưng không có tiền để thanh toán nợ đến hạn.
2. Bản báo cáo thu nhập không thể hiện tiền thu được từ hoạt động huy động vốn, như
vay dài hạn hoặc tăng thêm vốn góp của các cổ đông. Bản này cũng không thể hiện được
các khoản tiền đầu tư vào mua sắm tài sản cố định.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui Van 10 30/08/2004
Để khắc phục những thiếu sót trên, cần phải có bản báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bản báo
cáo này thể hiện tiền mặt1 thu vào và chi ra từ ba hoạt động sau:
Ngân lưu từ sản
xuất kinh doanh =
Tiền thu từ khách hàng do bán
hàng hoặc thực hiện dịch vụ -
Tiền chi cho hoạt động kinh
doanh: vật tư, lương, lãi, thuế...
Ngân lưu từ hoạt
động đầu tư =
Tiền bán tài sản cố định hoặc
chứng khoán đầu tư dài hạn -
Tiền mua tài sản cố định mua
chứng khoán đầu tư dài hạn
Ngân lưu từ hoạt
động huy động vốn =
Tiền mặt vay ngân hàng, phát
hành trái phiếu, cổ phiếu... -
Tiền trả nợ gốc, chi cổ tức, mua
cổ phiếu của chính công ty...
Có thể có vài quan điểm khác nhau trong việc phân chia các khoản tiền vào ba hoạt động
trên. Tuy nhiên các qui định cần phải được thống nhất trong mỗi nước. Nhìn chung có
một số điểm được thống nhất như sau:
• Chi lãi vay được báo cáo vào hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi việc đi vay
ngân hàng (kể cả vay ngắn hạn) và thanh toán tiền gốc của khoản vay được báo cáo
vào hoạt động huy động vốn.
• Thu lãi vay và thu cổ tức cũng được báo cáo vào hoạt động sản xuất kinh doanh, trong
khi việc cho vay, mua cổ phiếu của công ty khác và thu hồi tiền gốc của khoản vay
được báo cáo vào hoạt động huy động đầu tư.
• Chi trả cổ tức được ghi vào hoạt động huy động vốn.
• Thu lãi và cổ tức từ các khoản đầu tư chứng khoán của công ty (kể cả chứng khoán
đầu tư ngắn hạn) được báo cáo vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xét về cấu trúc, có thể thấy ba phương pháp chính cho báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
1. Phương pháp gián tiếp: Bản báo cáo được chia ra làm 3 phần tương ứng với 3 loại
hoạt động: kinh doanh, đầu tư, và huy động vốn. Bản báo cáo theo phương pháp gián tiếp
thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa ba bản báo cáo: bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập,
và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đây là lý do hiện nay hầu hết các công ty đều sử dụng
phương pháp này.
Ngân lưu từ hoạt động kinh doanh được tính xuất phát từ lợi nhuận ròng, từng bước thực
hiện các bước sau để đi từ lợi nhuận ròng đến ngân lưu.
Các khoản cộng vào (ví dụ):
1 Như qui ước trong kế toán, tài khoản tiền mặt bao gồm tiền mặt có trong tủ sắt, ngân phiếu, và tiền gửi
trong tài khoản của công ty tại ngân hàng. Kế toán Việt Nam qui định vàng bạc, đá quý hay kim loại quí
cũng được báo cáo chung vào tiền mặt.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Nguyên lý Kế toán Ôn tập
Năm học 2004-2005
Bui
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- On NLKTo.pdf