Nồng độ interleukin‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện da liễu TP Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Vảy nến là một bệnh da mạn tính do viêm, khá phổ biến. Tuy không ảnh hưởng đến tính mạng

nhưng bệnh lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Hiệu quả trong việc điều

trị còn rất thấp do sinh bệnh học vảy nến chưa được hiểu rõ ràng. Những nghiên cứu gần đây trên thế giới đã đề

cập đến vai trò quan trọng của các cytokine, đặc biệt là Interleukin‐6 (IL‐6) trong vảy nến.

Mục tiêu: Định lượng nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ

da toàn thân điều trị nội trú tại bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh từ 11/2012 đến 06/2013.

Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca.

Kết quả: Nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ da toàn thân

(ĐDTT) tăng cao so với nhóm chứng. Ngoài ra, nồng độ IL‐6 huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng có tương

quan thuận với chỉ số PASI

pdf6 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nồng độ interleukin‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tại bệnh viện da liễu TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Da Liễu 73 NỒNG ĐỘ INTERLEUKIN‐6 TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN   VẢY NẾN TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TP.HỒ CHÍ MINH  Mai Phi Long*, Lê Ngọc Diệp*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Vảy nến là một bệnh da mạn tính do viêm, khá phổ biến. Tuy không ảnh hưởng đến tính mạng  nhưng bệnh lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Hiệu quả trong việc điều  trị còn rất thấp do sinh bệnh học vảy nến chưa được hiểu rõ ràng. Những nghiên cứu gần đây trên thế giới đã đề  cập đến vai trò quan trọng của các cytokine, đặc biệt là Interleukin‐6 (IL‐6) trong vảy nến.  Mục tiêu: Định lượng nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ  da toàn thân điều trị nội trú tại bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh từ 11/2012 đến 06/2013.  Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca.  Kết quả: Nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy nến đỏ da toàn thân  (ĐDTT) tăng cao so với nhóm chứng. Ngoài ra, nồng độ IL‐6 huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng có tương  quan thuận với chỉ số PASI.  Kết luận: nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến cao hơn so với người bình thường và nồng đô  IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng có thể được sử dụng để đánh giá mức độ nặng của bệnh.  Từ khóa: IL‐6, cytokine, vảy nến.  ABSTRACT  SERUM INTERLEUKIN‐6 LEVEL IN PATIENTS WITH PSORIASIS   IN HO CHI MINH CITY HOSPITAL OF DERMATOLOGY  Mai Phi Long, Le Ngoc Diep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 73 ‐ 78  Background: Psoriasis  is a  chronic  inflammatory  and quite  common  skin disease. The disease  seriously  affects the quality of life in patients. The effect of treatment is very low because psoriasis pathogenesis is not  clearly understood. Recent studies in the world have mentioned the important role of cytokines, particularly  IL‐6 in psoriasis.  Objectives: Determining serum level of IL‐6 in inpatients with psoriasis vulgaris, psoriatic arthritis, and  psoriasis erythroderma in Ho Chi Minh city hospital of dermatology.  Method: Case series report.  Results: Serum level of IL‐6 was significantly increased in patients with psoriasis compared with those  of healthy controls. Besides, serum level of IL‐6 in patients with psoriasis vulgaris was positively correlated  with PASI.  Conclusion: Serum level of IL‐6 was significantly increased in patients with psoriasis compared with those  of healthy controls and Serum level of IL‐6 in patients with psoriasis vulgaris might be useful determining the  disease severity of psoriasis vulgaris.  Keywords: IL‐6, cytokine, psoriasis.  *Bộ môn Da liễu ĐH Y Dược TP. HCM  Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Ngọc Diệp  ĐT: 0938106969   Email: drlengocdiep@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 74 ĐẶT  VẤN  ĐỀ  Vảy nến  là một bệnh da mạn  tính do viêm  và chưa thể chữa khỏi hoàn toàn, với thương tổn  đặc  trưng  là  những mảng  hồng  ban  tróc  vảy,  giới hạn rõ kèm theo sự thâm nhiễm dày đặc của  tế bào T, đại thực bào, tế bào đuôi gai cũng như  sự tăng sinh và biệt hóa không hoàn toàn của tế  bào  sừng  lớp  thượng  bì(5). Bệnh  khá phổ  biến,  chiếm khoảng  2% dân  số  thế giới(6). Mặc dù  ít  gây  tử  vong  nhưng  bệnh  lại  gây  tổn  thương  nặng nề về mặt tinh thần và ảnh hưởng nghiêm  trọng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân(8).  Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của bệnh  vảy nến chưa được hiểu rõ, do đó việc điều  trị  chưa đạt được những kết quả như mong muốn.  Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây trên thế  giới đã cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống  cytokine  trong  cơ  chế bệnh  sinh  của bệnh  vảy  nến qua đó mở ra một hướng nghiên cứu và hi  vọng  mới  cho  việc  điều  trị  có  hiệu  quả  hơn  nhằm giúp cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh  nhân vảy nến.IL‐6 là một cytokine đa tác động,  đóngmột vai  tròquan  trọng  trong hệ miễn dịch  của  cơ  thể  nhờ  vào phạm  vi  rộng  lớn  của  các  hoạt  động miễn  dịch,  tạo máu  cũng  như  khả  năng mạnh mẽ của nó trong việc tạo ra các phản  ứng giai đoạn cấp tính. IL‐6 được tổng hợp bởi  nhiều loại tế bào khác nhau. Trong da, nó được  tổng hợp từ cả hai nguồn, tế bào thường trú (chủ  yếu là nguyên bào sợi và tế bào nội mô) và các tế  bào  viêm  thâm  nhiễm da  trong  nhiều  bệnh  lý  khác  nhau. Vai  trò  quan  trọng  của  IL‐6  trong  bệnh vảy nến là khả năng thúc đẩy sự tăng sinh  tế  bào  sừng  và  hoạt  hóa  tế  bào  lympho  T(3).  Ngoài  ra,  IL‐6  còn  là  yếu  tố  điều  hòa  sự  biểu  hiện của các cytokine khác trong bệnh vảy nến(4).  Với vai  trò  quan  trọng  của  IL‐6  trong  sinh  bệnh học  của  vảy nến  cùng  với  thực  trạng  tại  Việt Nam  còn  rất  ít  những  nghiên  cứu  về  các  cytokine nên chúng tôi quyết định thực hiện đề  tài “Nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân  vảy nến tại bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh  từ 11/2012 đến 06/2013”.  Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu tổng quát  Khảo sát nồng độ  IL‐6  trong huyết  thanh ở  những bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp,  vảy nến đỏ da toàn thân điều trị nội trú tại bệnh  viện Da  Liễu  TP.Hồ Chí Minh  từ  11/2012  đến  06/2013.  Mục tiêu chuyên biệt  Định lượng nồng độ IL‐6 trong huyết thanh  bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp và vảy  nến đỏ da toàn thân.  So sánh sự khác biệt về nồng độ  IL‐6  trong  huyết thanh giữa nhóm người bình  thường với  nhóm bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp  và vảy nến đỏ da toàn thân.  Xác định mối tương quan giữa nồng độ IL‐6  trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến mảng với  mức độ nặng của bệnh.  ĐỐI   TƯỢNG  – PHƯƠNG   PHÁP   NGHIÊN   CỨU  Phương pháp nghiên cứu  Mô tả hàng loạt ca.  Đối tượng nghiên cứu  Dân số đích  Tất cả các bệnh nhân vảy nến điều trị nội trú  tại bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh.  Dân số nghiên cứu  Tất cả các bệnh nhân vảy nến mảng, vảy nến  khớp và vảy nến đỏ da toàn thân điều trị nội trú  tại  bệnh  viện  Da  Liễu  TP.Hồ  Chí  Minh  từ  11/2012 đến 06/2013.  Tiêu chuẩn chọn mẫu  Nhóm bệnh nhân vảy nến  Tiêu  chuẩn  nhận  vào  nghiên  cứu:  Bệnh  nhân vảy nến mảng, vảy nến khớp và vảy nến  đỏ da  toàn  thân điều  trị nội  trú  tại bệnh viện  Da  Liễu  TP.Hồ  Chí Minh  từ  01/11/2012  đến  30/06/2013. Tuổi >= 18. Bệnh nhân đồng ý tham  gia nghiên cứu.  Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu: Bệnh nhân  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Da Liễu 75 đã được điều trị thuốc đặc hiệu tại chỗ hoặc theo  đường  toàn  thân  trong vòng 2  tháng  trước khi  nhập viện. Bệnh nhân mắc các bệnh khác: nhiễn  trùng  cấp  tính  hoặc mạn  tính,  bệnh  nội  khoa  mạn tính (xơ gan, ung thư). Bệnh nhân thuộc  những thể bệnh vảy nến khác: vảy nến giọt, vảy  nến  mủ.  Bệnh  nhân  không  đồng  ý  tham  gia  nghiên cứu.  Nhóm người bình thường  Đồng ý tham gia nghiên cứu. Những người  khỏe mạnh hiện  tại không mắc vảy nến và các  bệnh: nhiễm trùng cấp hoặc mạn tính, bệnh nội  khoa mạn  tính (xơ gan, ung  thư). Có độ  tuổi  và  giới  tính  tương  đồng  với  nhóm  bệnh  nhân  vảy nến.  Phương pháp chọn mẫu  Chọn mẫu thuận tiện, liên tục.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Nghiên  cứu  được  tiến  hành  từ  tháng  11/2012 đến 06/2013 trên 70 bệnh nhân vảy nến  và 30 người bình thường tại Bệnh viện Da liễu  TP.HCM với  các  kết  quả  ghi nhận  được như  sau:  Đặc điểm dịch tễ của đối tượng nghiên cứu  Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của nhóm bệnh nhânvảy  nến và nhóm chứng  Đặc điểm Nhóm vảy nến (N= 70) Nhóm bình thường (N=30) p Tuổi (trung bình) 40,01±13,74 37,17±10,93 0,324 Cao nhất 68 54 Thấp nhất 19 19 Giới (%) 0,694 Nam 54,3% 50% Nữ 45,7% 50% Không có sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê  về  tuổi và giới  tính giữa nhóm bệnh nhân vảy  nến và nhóm chứng (p = 0,324 và p = 0,694). Tỉ lệ  nam chiếm ưu  thế so với nữ  trong nhóm bệnh  nhân vảy nến.  Đặc điểm lâm sàng của nhóm bệnh nhân  vảy nến  Tuổi khởi phát và thời gian bệnh  Bảng 2: Tuổi khởi phát và thời gian bệnh của nhóm  bệnh nhân vảy nến  Đặc điểm Tối thiểu Tối đa TB±ĐLC Tuổi khởi phát 9 47 25,61±10,32 Thời gian bệnh 1 41 14,40±10,80 Bệnh có khởi phát ở bất kỳ lứa tuổi nào. Thời  gian bệnh kéo dài.  Phân loại lâm sàng  Bảng 3: Phân loại lâm sàng nhóm bệnh nhân vảy nến  Dạng lâm sàng Nam Nữ Tổng cộng Tỉ lệ (%) Vảy nến mảng 27 16 43 61,4 Vảy nến khớp 3 8 11 15,7 Vảy nến ĐDTT 8 8 16 22,9 Tổng cộng 38 32 70 100 Vảy nến mảng  chiếm  ưu  thế với  61,4%, kế  đến là vảy nến ĐDTT với 22,9% và ít nhất là vảy  nến khớp với 15,7%.  Chỉ số PASI  Chỉ số PASI trung bình của nhóm bệnh nhân  vảy nến mảng  là 16,64±8,38; cao nhất  là 38,6 và  thấp nhất là 3,2.  Nồng độ IL‐6 huyết thanh  Nồng độ IL‐6 huyết thanh của nhóm bệnh  nhân vảy nến và nhóm chứng  Bảng 4: Nồng độ IL‐6 huyết thanh của nhóm bệnh  nhân vảy nến và nhóm chứng  Nhóm nghiên cứu Nồng độ IL-6 (pg/mL) p Tối thiểu Tối đa TB±ĐLC Người bình thường 1,50 14,59 4,60±3,03 0,00003 Bệnh nhân vảy nến 1,50 25,86 9,40±5,60 Nồng độ IL‐6 huyết thanh nhóm bệnh nhân  vảy  nến  cao  hơn  có  ý  nghĩa  thống  kê  so  với  nhóm chứng (p=0,00003).  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 76 Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  theo  từng  nhóm  lâm sàng của bệnh nhân vảy nến  Bảng 5: Nồng độ IL‐6 huyết thanh theo từng nhóm  lâm sàng của bệnh nhân vảy nến  Nhóm vảy nến Người bình thường p Vảy nến mảng 8,01±5,14 0,007 Vảy nến khớp 9,89±4,46 4,60±3,03 0,0004 Vảy nếnĐDTT 12,78±6,25 0,000003 Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  trung  bình  ở  nhóm vảy nến ĐDTT cao nhất, kế đến là nhóm  vảy  nến  khớp  và  thấp  nhất  là  nhóm  vảy  nến  mảng. Nồng  độ  IL‐6 huyết  thanh  ở cả 3 nhóm  vảy nến mảng, vảy nến khớp và vảy nến ĐDTT  đều cao hơn có ý nghĩa  thống kê  so với nhóm  chứng (p<0,01).  Tương  quan  giữa  nồng  đô  IL‐6  huyết  thanh  của bệnh nhân vảy nến mảng  với  chỉ số PASI   Bảng 6: Tương quan giữa nồng đô IL‐6 huyết thanh  của bệnh nhân vảy nến mảng với chỉ số PASI  Yếu tố TB ĐLC r p IL-6 (pg/mL) 8,01 5,14 0,403 0,007 PASI 16,64 8,38 Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  của  bệnh  nhân  vảy nến mảng có  tương quan  thuận  ở mức  độ  vừa  với  chỉ  số  PASI  với  hệ  số  tương  quan  Pearson là 0,403 (p=0,007).  BÀN LUẬN  Phân bố giới  tính  trong nhóm bệnh nhân  vảy nến  Nghiên cứu của  chúng  tôi  có  tỉ  lệ nam  cao  hơn nữ (54,3% so với 45,7%). Theo Nguyễn Tất  Thắng thì tỉ lệ nam là 64,52%, và nữ là 35,47%(10).  Theo  Fizpatrick(6),  tỉ  lệ  nam  và  nữ  trong  bệnh  vảy nến  là ngang nhau,  giống  với  nghiên  cứu  của một số tác giả như Reynoso(14), Meibodi(7).  Tỉ  lệ  nam  nhiều  hơn  nữ  trong  nghiên  cứu  của chúng tôi có thể là do lối sống của nam giới  tại Việt Nam tồn tại những thói quen không tốt  như  hút  thuốc  lá  và  uống  rượu  bia,  là  yếu  tố  khởi phát và làm bệnh vảy nến nặng hơn. Ngoài  ra, nam giới thường có xu hướng lo lắng kinh tế  gia  đình nhiều hơn,  tham gia  công việc xã hội  nhiều hơn, vì vậy khả năng bị stress nhiều hơn.  Sự căng thẳng tinh thần là một yếu tố khởi phát  và làm bệnh vảy nến nặng hơn(6). Thêm vào đó,  tại  Việt Nam,  phụ  nữ  thường  có  tâm  lý  chịu  đựng và e ngại nằm viện, nếu bệnh không diễn  tiến rất nặng thì thường cố gắng điều trị tại nhà.  Vì  những  nguyên  nhân  trên,  trong  những  nghiên  cứu về bệnh vảy nến  tại  các  trung  tâm  điều trị chuyên khoa tại Việt Nam, tỉ lệ nam giới  thường cao hơn nhiều so với nữ. Tuy nhiên, tỉ lệ  này có thể không đại diện cho tỉ lệ phân bố giới  tính bệnh nhân vảy nến trong cộng đồng.  Phân loại lâm sàng  Vảy nến mảng chiếm ưu thế với 61,4%, kế  đến  là vảy nến ĐDTT với 22,9% và  ít nhất  là  vảy  nến  khớp  với  15,7%.  Theo  nghiên  cứu  tương tự của Bincy Verghese và các cộng sự(18)  thì vảy nến mảng  chiếm  trên 90% bệnh nhân  vảy nến  trong nhóm nghiên  cứu.Theo nghiên  cứu  của Takahasi và  các  cộng  sự(17)  thực hiện  trên  122  bệnh  nhân  tại  Nhật  Bản,  vảy  nến  mảng chiếm 83,6%, vảy nến khớp chiếm 6,6%,  vảy  nến  đỏ  da  toàn  thân  chiếm  4,1%  và  vảy  nến giọt chiếm 5,7%.  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỉ  lệ  vảy  nến  mảng  chiếm  ưu  thế,  phù  hơp  theo  Fitzpatrick(6),  vảy  nến  mảng  là  thể  lâm  sàng  thường gặp nhất trong bệnh vảy nến (chiếm tỉ lệ  80%). Tuy nhiên tỉ lệ vảy nến khớp và đặc biệt là  vảy nến đỏ da toàn thân lại cao hơn nhiều so với  các nghiên cứu khác. Nguyên nhân là do chúng  tôi chỉ chọn vảy nến mảng, vảy nến khớp, vảy  nến đỏ da toàn thân vào nghiên cứu và loại khỏi  nghiên  cứu  những  thể  bệnh  vảy  nến  khác.  Ngoài  ra, nghiên  cứu  của  chúng  tôi  được  thực  hiện  tại bệnh viện Da Liễu TP.Hồ Chí Minh,  là  bệnh  viện  chuyên  khoa  đầu  ngành  tại  miền  nam, thường tiếp nhận những ca bệnh nặng từ  các tuyến chuyển về.  Chỉ số PASI   Chỉ số PASI đánh giá độ nặng ở bệnh nhân  vảy nến mảng dao động khá  lớn,  trung bình  là  16,64±8,38, cao nhất là 38,6 và thấp nhất là 3,2.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Da Liễu 77 Theo  nghiên  cứu Helen  L  Richards  và  các  cộng  sự(15)  thì  chỉ  số  PASI  trung  bình  là  9,1±6,9.Theo nghiên cứu của  Ines Schäfervà các  cộng sự(16) thực hiện trên 93 bệnh nhân vảy nến  từ 18  tuổi  trở  lên  tại Hamburg  thì  chỉ  số PASI  trung bình là 13,7±9,5. Một nghiên cứu của Ozer  Aricanvà các cộng sự(11)  thực hiện  trên 30 bệnh  nhân vảy nến mảng cho chỉ số PASI trung bình  là 9,30±8,15.  Chỉ  số  PASI  ở  các  nghiên  cứu  khá  khác  nhau. Điều này có thể do vảy nến là bệnh diễn  tiến mạn tính nên các đối tượng nghiên cứu có  thể có  thời gian bệnh  thay đổi, diễn  tiến càng  lâu,  càng  dai  dẳng  thì  bệnh  càng  nặng.  Thời  gian bệnh của các bệnh nhân trong các nghiên  cứu rất khác nhau nên độ nặng của bệnh, biểu  hiện qua chỉ số PASI cũng rất khác nhau.Cũng  có thể nhận thấy chỉ số PASI trong nghiên cứu  của  chúng  tôi  cao  hơn  so  với  những  nghiên  cứu tương tự trên thế giới phần nào phản ánh  sự thiếu quan tâm đến điều trị của bệnh nhân  vảy nến tại Việt Nam. Chỉ khi tình trạng bệnh  đã  nặng  nề  và  gây  ảnh  hưởng  nghiêm  trọng  đến  sức  khỏe,  sinh  hoạt  hằng  ngày  thì  bệnh  nhân mới  tìm đến khám và điều  trị  tại các sở  chuyên khoa.  Tương  quan  giữa  nồng  đô  IL‐6  huyết  thanh  của bệnh nhân vảy nến mảng  với  chỉ số PASI   PASI  là một trong những chỉ số được dùng  để  đánh giá mức  độ nặng  của bệnh nhân vảy  nến. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi ghi  nhận nồng độ  IL‐6 huyết  thanh bệnh nhân vảy  nến mảng và chỉ số PASI có tương quan thuận ở  mức độ trung bình (hệ số tương quan Pearson r=  0,403; p = 0,007).  Tương  tự, nghiên  cứu  của T.Elango  và  các  cộng sự trên 22 bệnh nhân vảy nến mảng cũng  ghi nhận mối  tương quan  tuyến  tính  rất mạnh  giữa nồng  độ  IL‐6 huyết  thanh và  chỉ  số PASI  trước (r=0,992; p<0,000) và sau (r=0,987; p<0,000)  điều  trị  12  tuần  với Methotrexate.Một  nghiên  cứu khác của Ammar K.H. Alshoraf và các cộng  sự cũng ghi nhận mối tương quan khá chặt giữa  nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  với  chỉ  số  PASI  (r=0,676; p<0,05).  Ngược  lại,  tác  giả Ozer  và  các  cộng  sự  sử  dụng một mẫu  ít hơn  (n=30) những bệnh nhân  vảy  nến mảng  cho  thấy  không  có mối  tương  quan giữa nồng  độ  IL‐6 huyết  thanh và  chỉ  số  PASI  (p=0,88). Cỡ mẫu  của  chúng  tôi  lớn  hơn  nhiều  (n=70)  nên  có  thể  phát  hiện  được  mối  tương quan có ý nghĩa thống kê.  Bên  cạnh  đó, Takahashi dùng một  cỡ mẫu  lớn  hơn  (122  người)  nhưng  cũng  không  ghi  nhận  được mối  tương quan giữa nồng  độ  IL‐6  huyết thanh với chỉ số PASI. Tác giả đánh giá chỉ  số PASI  trên cả bệnh nhân vảy nến mảng, vảy  nến khớp, vảy nến  ĐDTT và vảy nến giọt. Có  thể do cách chọn mẫu này đưa đến kết quả khác  biệt với nghiên cứu của chúng tôi.  Nồng độ IL‐6 trong huyết thanh bệnh nhân  vảy nến và nhóm người bình thường  Bảng 7: So sánh một số nghiên cứu trên thế giới về  nồng độ IL‐6 trong bệnh nhân vảy nến  Tác giả Nồng độ IL-6 huyết thanh (pg/mL) p Nhóm vảy nến Nhóm bình thường Chúng tôi 9,40±5,60 (N=70) 4,60±3,03 (N=30) 0,00003* Nakajima(9) 13.38 ± 4.67 (N=30) 2.85 ± 0.50 (N=30) <0,0001* Takahashi(17) 3,24±0,85 (N=122) 1,81±0,24 (N=78) <0,01* Abdullah Abanmi(1) 37,5±2,09 (N=29) 5,8±0,79 (N=25) <0,001** Bincy Verghese(18) 61,26±57,40 (N=30) 2,38±1,94 (N=30) <0,001* Ammar K.H. Alshoraf(2) 61.47 ± 8.21 (N=15) 31.54±13.73 (N=15) <0,01** Halla M.Ragab(13) 15,24±8,58 (N=40) 5,99±1,34 (N=40) <0,05** Radhia hussain fadel(12) 32,004±19,199 (N=80) 12,620±9,730 (N=30) <0,01** *Mann‐Whitney U test, **Student t test  Kết quả ghi nhận nồng độ  IL‐6 nhóm bệnh  nhân vảy nến cao hơn nhóm người bình thường  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p=0,00003). Kết  quả  này  tương  tự như một số nghiên cứu khác  trên  thế  giới  được  trình  bày  ở  bảng  7.  Kết  quả  định  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 78 lượng  nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  trong  bệnh  nhân vảy nến của chúng  tôi và các nghiên cứu  tương tự trên thế giới cho kết quả rất khác nhau  do ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Tuy nhiên, khi  so  sánh  nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  giữa  nhóm  bệnh nhân vảy nến và nhóm người bình thường  trong tất cả các nghiên cứu đều cho thấy sự khác  biệt có ý nghĩa thống kê rõ rệt. Tất cả các tác giả  đều  khẳng  định  nồng  độ  IL‐6  tăng  cao  trong  huyết  thanh  bệnh  nhân  vảy  nến  so  với  người  bình thường, điều này chứng tỏ IL‐6 có một vai  trò nhất định trong sinh bệnh học của vảy nến.  KẾT LUẬN  Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  của  bệnh  nhân  vảy nến nói chung và của  từng dạng  lâm sàng  nói riêng đều cao hơn nhóm người bình thường.  Nồng  độ  IL‐6  huyết  thanh  có  mối  tương  quan thuận với độ nặng của bệnh nhân vảy nến  mảng tính theo chỉ số PASI.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Abanmi A, Al Harthi F, Al Agla R, Khan HA, Tariq M (2005),  ʺSerum  levels  of  proinflammatory  cytokines  in  psoriasis  patients  from  Saudi  Arabiaʺ,  International  Journal  of  Dermatology, 44(1), 82‐83.  2. Alshorafa AK, Guo Q, Zeng F, Chen M, Tan G, Tang Z, Yin R  (2012),  ʺPsoriasis  Is Associated with  Low  Serum  Levels  of  Hydrogen Sulfide, a Potential Anti‐inflammatory Moleculeʺ,  Tohoku J. Exp. Med, 228(4), 325‐332.  3. Bonifati  C, Ameglio  F  (1999),  ʺCytokines  in  psoriasisʺ,  International Journal of Dermatology, 38(4), 241‐251.  4. Borden  EC,  Chin  P  (1994),  ʺInterleukin‐6:  a  cytokine with  potential  diagnostic  and  therapeutic  rolesʺ,  J Lab Clin Med,  123(6), 824‐9.  5. Griffiths  CE,  Barker  JN  (2007),  ʺPathogenesis  and  clinical  features of psoriasisʺ, Lancet, 370(9583), 263‐271.  6. Gudjonsson  JE,  et  al  (2007),  ʺPsoriasisʺ,Fitzpatrickʹs  Dermatology  in  General Medicine, McGraw‐Hill,  7,  1,169‐ 193.  7. Javidi  Z,  Meibodi  NT,  Nahidi  Y  (2007),  ʺSerum  lipids  abnormalities  and  psoriasisʺ,  Indian  J  Dermatol  [serial  online]; 52, 89‐92.  8. Krueger G,  Koo  J,  Lebwohl M, Menter A,  Stern  RS,  et  al  (2001), ʺThe impact of psoriasis on quality of life: results of a  1998  National  Psoriasis  Foundation  patient‐membership  surveyʺ, Arch Dermatol, 137(3), 280‐284.  9. Nakajima H, Nakajima K, Tarutani M, Morishige R, Sano S  (2011), ʺKinetics of circulating Th17 cytokines and adipokines  in psoriasis patientsʺ, Arch Dermatol Res, 303(6), 451‐455.  10. Nguyễn Tất Thắng (2003), ʺNghiên cứu điều trị bệnh vảy nến  chưa biến chứng bằng kẽm và DDSʺ, Luận  án  tiến  sĩ y học  chuyên ngành bệnh học nội khoa, Đại học Y Dược TP.Hồ  Chí Minh.  11. Ozer Arican, Murat Aral, Sezai Sasmaz, Pinar Ciragil (2005),  ʺSerum Levels of TNF‐α,  IFN‐γ,  IL‐6,  IL‐8,  IL‐12,  IL‐17, and  IL‐18 in Patients With Active Psoriasis and Correlation With  Disease Severityʺ, Mediators Inflamm, 2005(5), 273‐279.  12. Radhia hussain fadel (2012),  ʺSera  levels of  Interleukin  ‐6  in  psoriatic patients in najaf cityʺ, QMJ, 8(14), 251‐262.  13. Ragab  HM,  et  al  (2010),  ʺBiochemical  Significance  of  Proinflammatory  Cytokines  in  Psoriasis  vulgaris  among  Egyptian Patientsʺ, New York Science Journal, 3(10), 58‐66.  14. Reynoso‐von  Drateln  C,  Martínez‐Abundis  E,  Balcázar‐ Muđoz  BR,  Bustos‐Saldađa  R,  González‐Ortiz  M  (2003),  ʺLipid  profile,  insulin  secretion,  and  insulin  sensitivity  in  psoriasisʺ,  Journal  of  the  American  Academy  of  Dermatology,  48(6), 882‐885.  15. Richards HL, Fortune DG, Griffiths CE, Main CJ. (2001), ʺThe  contribution of perceptions of stigmatisation  to disability  in  patients with psoriasisʺ,  Journal of Psychosomatic Research,  50(1), 11‐15.  16. Schäfer  I, Hacker  J, Rustenbach  SJ, Radtke  M, Franzke  N, Augustin M  (2010),  ʺConcordance  of  the  Psoriasis Area  and Severity Index (PASI) and patient‐reported outcomes in  psoriasis treatmentʺ, Eur J Dermatol, 20(1), 62‐67.  17. Takahashi H,  Tsuji H, Hashimoto  Y,  Ishida‐Yamamoto A,  Iizuka H (2010), ʺSerum cytokines and growth factor levels in  Japanese  patients with  psoriasisʺ,  Clin  Exp Dermatol,  35(6),  645‐649.  18. Verghese  B, Bhatnagar  S, Tanwar  R, Bhattacharjee  J  (2011),  ʺSerum Cytokine Profile  in Psoriasis‐A Case–Control Study  in  a  Tertiary  Care  Hospital  from  Northern  Indiaʺ,  Indian  Journal of Clinical Biochemistry, 26(4), 373‐377.  Ngày nhận bài báo:       01/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   07/11/2013  Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf73_3373.pdf
Tài liệu liên quan