Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một phạm trù
có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng:
“Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư
tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước
pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình
thức pháp lý của tổ chức, thực hiệnquyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không
thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những vấn đề cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những vấn đề cơ bản về xây dựng nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân
1. MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền.
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là một phạm trù
có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng:
“Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư
tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước
pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình
thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không
thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nhà nước tồn tại không thể thiếu pháp luật, ngược lại thiếu Nhà nước, pháp luật
trở nên vô nghĩa. Bởi vì, pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện.
Nhà nước cần đến pháp luật vì thông qua pháp luật, dựa vào pháp luật, nhà nước
mới quản lý được đời sống xã hội. Dựa trên pháp luật và các công cụ khác, Nhà
nước thiết lập một trật tự xã hội. Tuy vậy, lịch sử cho thấy không phải khi nào có
Nhà nước, có pháp luật là có ngay Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền
không phải là kiểu nhà nước xét theo học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã
hội. Nhà nước pháp quyền ra đời ở một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Nhà nước pháp quyền từ quan điểm, tư tưởng đã dần trở thành thực tế lịch sử.
Trong khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn còn nhiều
quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng Nhà nước pháp quyền
là một hình thức nhà nước. Ý kiến khác lại cho rằng Nhà nước pháp quyền là một
phương thức quản lý xã hội và thực hiện quyền lực nhà nước. Nhiều ý kiến cho
rằng có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN, nhưng nhà
nước pháp quyền XHCN ở trình độ phát triển cao hơn nhà nước pháp quyền tư
sản.
Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền được hiểu tập trung theo hai khía cạnh chủ yếu
sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật (đạo
luật) thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan hệ xã hội
bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn bản dưới luật thì
quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, Nhà nước pháp quyền còn được hiểu là một hình thức tổ chức Nhà nước
và hoạt động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể hiện mối quan hệ
bình đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của pháp luật.
Tại hội thảo về Nhà nước pháp quyền của các nước cùng sử dụng tiếng Pháp, tổ
chức tại Bê-nanh tháng 9 năm 1991, từ các giác độ khác nhau, luật gia của trên 40
nước đã đưa ra các quan điểm như sau:
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó quyền và nghĩa vụ của tất cả và của
mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo hộ; Nhà nước pháp quyền được định
nghĩa chung là một chế độ mà ở đó Nhà nước và các cá nhân phải tuân thủ pháp
luật, tức là một thứ bậc các quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng toà
án độc lập; Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất của con
người; Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại
chính sự tuỳ tiện của Nhà nước, Nhà nước đề ra pháp luật đồng thời phải tuân thủ
pháp luật, tự đặt cho mình và các thiết chế của mình trong khuôn khổ pháp luật.
Phải có các cơ chế khác nhau để kiểm tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật
cũng như các hành vi của bộ máy hành chính...đặc điểm của Nhà nước pháp quyền
là Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi
cái ngoài hoặc trên những điều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nhà
nước pháp quyền là một chế độ mà ở đó Hiến pháp thống trị, nhưng phải là một
Hiến pháp được xây dựng trên sự tự do và quyền công dân được bảo đảm thực
hiện.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng có
định nghĩa: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là một kiểu
nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản, xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái quát là hệ thống các tư
tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã
hội theo pháp luật. Đương nhiên, bao giờ pháp luật cũng mang tính giai cấp, phục
vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Tại bài viết về “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân” của Chủ tịch nước Trần Đức Lương đăng trên Tạp chí Cộng sản số 1/ 2002
có đoạn viết: Nhà nước pháp quyền, nói một cách khác là hệ thống các tư tưởng,
quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà
nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội
theo pháp luật và đề cao quyền con người, quyền công dân.
Theo GS -TSKH Đào Trí Úc thì: Khi nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến một
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước. Ở đó pháp luật là cơ sở cho việc tổ chức
tốt nhất quyền lực nhà nước. (Hội thảo: "Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam" tổ chức tại Hà
Nội ngày 30, 31/ 8/ 2002).
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư tưởng rất
phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau: Tiếp cận nhà nước pháp
quyền dưới giác độ tư tưởng, lý luận, bàn về các quan điểm, quan niệm về nhà
nước pháp quyền. Lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền
XHCN đang còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong chương trình khoa học và
công nghệ cấp Nhà nước KX - 04.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chung
quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội dung rất phong
phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận một trạng thái phát
triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Tựu chung các ý kiến
thường lấy các dấu hiệu đặc trưng để xác định nội hàm của khái niệm nhà nước
pháp quyền, như: tính tối cao của Luật, sự phân công quyền lực, dân chủ và bảo
đảm quyền con người, trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân; tính độc lập
của nền tư pháp... Theo đó: Nhà nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước
được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà
nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính
phổ biến cao (đề cao tính tối cao của Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể
hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
1.1.2. Đặc trưng và các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
a. Các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền gồm:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật, trong đó
pháp luật là ý chí chung của nhân dân. Tính tối cao của pháp luật thể hiện trên hai
phương diện:
Thứ nhất: Đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, trong đó đề cao vai trò của
Hiến pháp và các đạo luật.
Thứ hai: Tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã
hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà
nước và xã hội. Nhà nước trong thiết chế của nhà nước pháp quyền là nhà nước
tuân thủ pháp luật, mặc dù nhà nước là người ban hành ra pháp luật đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân
chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các
quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó
khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà pháp luật
không cấm trong khuôn khổ pháp luật, không xâm phạm đến tự do của người
khác, pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước
và công dân; quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại quyền
của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước
công dân về mọi hoạt động của mình còn công dân phải thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật
của mình.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước
thích hợp và có cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý vi phạm
pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện, chống chuyên quyền, lạm quyền.
Xét trong cả chiều dài lịch sử của sự phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền
cho thấy những đặc trưng của nhà nước pháp quyền thể hiện những tư tưởng, quan
niệm tiến bộ trong quá trình tìm tòi hình thức tổ chức, hoạt động của quyền lực
công cộng trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”.
b. Giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền cần kế thừa và phát huy.
- Nhà nước pháp quyền đề cao pháp luật và các giá trị của pháp luật. Khẳng định,
đề cao pháp luật là công cụ hữu hiệu để tổ chức quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải là ý chí chung của nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và các Luật. Đảm bảo
cơ sở cho một nền pháp chế vững chắc, ổn định.
- Khẳng định tính pháp quyền của các thể chế nhà nước; tính bị ràng buộc bởi
pháp luật về thẩm quyền, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước;
Yêu cầu kiểm soát về quyền lực, đảm bảo sự giám sát đối với quá trình sử dụng
quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính pháp lý của quyền lực
nhà nước, sự ràng buộc bởi pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
công quyền. Khẳng định và duy trì sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước, đội ngũ công chức nhà nước. Coi nhà nước là tổ
chức công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và quản lý xã hội thống nhất
bằng pháp luật; chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tuỳ tiện của bộ máy
nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền khẳng định các giá trị của công lý, đề cao vai trò của Toà
án và các cơ quan tư pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính độc lập của cơ
quan tư pháp. Đảm bảo mọi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện xử lý bình đẳng
trước pháp luật.
- Thừa nhận công dân là chủ thể của “xã hội công dân”; công dân là đối tượng
phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân, đảm bảo tự do của
mỗi công dân trong khuôn khổ không xâm hại đến lợi ích của người khác và lợi
ích xã hội. Nhà nước pháp quyền đảm bảo quyền con người và các quyền lợi ích
hợp pháp, chính đáng của công dân. Khẳng định nhà nước là công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Dựa trên các Văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và Hiến pháp nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản thuộc nội hàm
khái niệm nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam như sau:
1.2.1 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phải có hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao thể hiện được ý chí, lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp và các đạo luật phải
giữ vị trí tối cao. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức
nhà nước và mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật.
1.2.2 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của
mình thông qua hình thức dân chủ đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình
bầu ra) và hình thức dân chủ trực tiếp.
1.2.3 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện được quản lý xã hội
bằng pháp luật, tăng cường được pháp chế trong xã hội, xử lý nghiêm minh
mọi vi phạm pháp luật, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm trước công dân
về mọi hoạt động của mình.
1.2.4 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước tổ chức theo
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giưã các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích
hợp pháp của công dân từ phía Nhà nước.
1.2.5 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng cộng sản
Việt nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm đặc trưng, cơ bản, rất quan trọng mang
tính lý luận và đã được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của cách mạng Việt
Nam.
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện
những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng
của nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, chúng ta đặt vấn đề đẩy mạnh cải cách tổ chức
và hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan điểm tích cực, tiến bộ và khoa
học về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc
mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thức do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đó là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các
quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ
phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân
chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của
nhà nước.
Đó là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán
bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách
nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
2. KHÁI QUÁT VỀ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
Đánh giá đúng về thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên những kết quả không thể phủ nhận được phải
kể đến đó là kết quả trong nhận thức đặt nền tảng cho hành động; kết quả trong
phát triển nghiên cứu lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền và những kết quả
đạt được bước đầu trong thực tiễn của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - bước đổi mới quan
trọng trong nhận thức và hành động của Đảng và Nhà nước ta.
Trong tình hình mới của cách mạng Việt nam, Đảng và nhà nước ta đã sáng suốt
khẳng định nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Nói cách khác việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt nam là một tất yếu khách quan. Nhận thức này được coi là một thắng lợi của
quá trình đổi mới trong tiến trình xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước pháp quyền
XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Hiến pháp
1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Sở dĩ Đảng ta đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vì
những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất: Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam vì bản
thân lý luận về nhà nước pháp quyền có những điểm tiến bộ, hợp lý trong việc
thực hành quyền dân chủ, trong việc tổ chức, hoạt động của nhà nước. Nhà nước
pháp quyền trong đặc trưng của nó có nhiều điểm phù hợp với bản chất của nhà
nước ta. Tuy nhiên vì nhà nước và pháp luật luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc,
vì vậy Đảng ta xác định rõ: xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ hai: Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn xuất
phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của nhà nước ta còn nhiều khiếm khuyết, yếu
kém, chưa thực sự là nhà nước tuân thủ pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật. Bên cạnh những thành tựu rất to lớn đạt được, bộ máy nhà nước ta chưa
thực sự trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn
nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý điều hành còn chưa nghiêm;
kỷ cương xã hội bị buông lỏng làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước ta. Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới. Tổ
chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công phối hợp giữa cac cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn những điểm
chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa
phương còn một một số mặt chưa cụ thể làm cho tình trạng tập trung quan liêu
cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục...Do đó Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động của nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó cốt lõi là xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Thứ ba: Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam còn xuất
phát từ tính tất yếu khách quan của sự phát triển của đất nước theo định hướng
XHCN. Sự tất yếu khách quan ấy xuất phát từ định hướng xây dựng CNXCH mà
mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ: dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. Đảng ta ý thức sâu sắc rằng để đạt được một chế độ xã hội
có mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN; một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Thứ tư: Đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam còn xuất
phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập quốc tế
đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, đảm
bảo cho nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết các nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập
vững chắc vào đời sống quốc tế.
Trong thực tế, qua hơn mười lăm năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh quá trình
cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đây phải được coi là thành
công quan trọng đầu tiên của thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta.
2.2. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với
quá trình phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Ngay từ khi ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nay là Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là Nhà nước mang bản chất của nhà nước
kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính pháp quyền
trong tổ chức, hoạt động của nhà nước đã thể hiện trong nhiều văn kiện Đảng và
thể hiện ngày càng rõ nét hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản
Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định
trong các Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế
hoá rõ trong Hiến pháp 1992 và Nghị quyết sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi phải dựa trên hệ thống lý luận
phù hợp với chính điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam.
Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của Đảng cộng
sản Việt Nam, trong các bản Hiến pháp thể hiện quá trình nhận thức ngày càng
đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn của Đảng, Nhà nước ta về tư tưởng nhà
nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại cũng như vấn đề xây dựng Nà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản ở nước ta hiện nay.
Những nhận thức cơ bản này là một đảm bảo quan trọng cho quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đạt được kết quả thắng lợi.
Ngay từ lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta. Tư tưởng của Người
về Nhà nước pháp quyền là một bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của
Đảng ta. Trước hết pháp quyền được người sử dụng là khẩu hiệu để đấu tranh
chống áp bức và chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc. Trong bài viết "Yêu sách
của dân An nam", Người từng đưa ra yêu cầu: "Phải thay chế độ ra sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật". Người nhấn mạnh: "Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền". Xuất phát từ tư tưởng trên, khi xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân,
Người đã khẳng định: Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là
vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ
trung ương đều do dân cử. Tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do
dân và vì dân ngày càng được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng cộng
sản Việt nam, trong các bản Hiến pháp qua các thời kỳ. Tuy nhiên, xét về thời
điểm sử dụng thuật ngữ, lần đầu tiên Văn kiện của Đảng sử dụng thuật ngữ “Nhà
nước pháp quyền” là Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá
VII. Tại phần thứ 2 về “Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” của Văn
kiện hội nghị này đã nêu nhiệm vụ thứ 7 là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
nam của dân, do dân và vì dân” . Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản
lý mội mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cở sở
tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công
nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VII (1/ 1995) đã nêu
ra 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng kiện toàn nhà nước;
một trong 5 quan điểm là xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước
XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với gia cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Gắn xây dựng
nhà nước pháp quyền với tăng cường pháp chế XHCN; quản lý xã hội bằng pháp
luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức XHCN.
Văn kiện đại hội lần thứ VIII tiếp tục nhắc lại 5 quan điểm và các nhiệm vụ xây
dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 ban chấp
hành TƯ khoá VIII về “phát huy quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục xây dựng
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh” khi đánh giá đã nêu
nhận xét đầu tiên là: đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ
bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Mặt khác
khi phân tích nguyên nhân yếu kém trong xây dựng nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ:
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh
tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm
vừa tìm tòi rút kinh nghiệm.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Nhà nước ta là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước,
các tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến
pháp và pháp luật. Mặt khác Văn kiện cũng xác định: Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhiệm vụ số một, nhiệm vụ
bao trùm, chi phối các nhiệm vụ khác trong nội dung phần thứ IX về “đẩy mạnh
cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước...”.
Như vậy, Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định rõ xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ
ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 137_1178.pdf