Năm 2012 là năm kinh tế thế giới đầy biến động và không ít khó khăn. Điều đó đã ảnh
hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế Hà Tĩnh cũng không thể nằm ngoài sự
ảnh hưởng đó. Tuy vậy, bằng nhiều giải pháp tích cực, sáng tạo và cách làm hợp lý, Hà Tĩnh
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về tăng trưởng kinh tế. Để đạt được các mục tiêu đã
đặt ra trong năm 2013, Hà Tĩnh cần thực hiện hệ thống đồng bộ nhiều giải pháp. Bài báo này
chỉ nêu lên 5 giải pháp mà tác giả cho là chủ yếu để thực hiện các mục tiêu đó.
Từ khóa: tăng trưởng kinh tế, thu và chi ngân sách
137 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những trở lực trong hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học địa phương khu vực Bắc miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hờ vậy người lao động đã có thêm việc làm, giảm
thời gian nông nhàn và tăng thêm thu nhập cho bản thân.
- Tạo việc làm thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra các thị trường, trong
đó chú trọng đến lao động ở khu vực nông thôn, khu vực bị tác động của quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa trên cơ sở trang bị cho họ một trình độ nhất định về tay nghề, chuyên
môn kỹ thuật, đặc biệt là ý thức, đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật lao động.
- Công tác thu thập, xử lý thông tin cung cầu lao động được triển khai thực hiện tốt.
Thực hiện thành công thí điểm xây dựng cơ sở dữ liệu về cầu lao động tại toàn bộ các
doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh; triển khai tập huấn cho 100% cán bộ làm
công tác lao động của xã, phường, thị trấn, cán bộ phòng lao động thương binh xã hội
huyện, thị xã, thành phố; cán bộ Trung tâm Giới thiệu việc làm.
2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho huyện Kỳ Anh
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về tạo việc làm cho người lao
động nông thôn trong quá trình đô thị hóa, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 2 99
huyện Kỳ Anh như sau:
Một là, tiếp tục tiến hành rà soát và hoàn thiện quy hoạch tổng thể về sử dụng đất
nông nghiệp gắn với việc quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế - xã hội của huyện. Khắc phục tư tưởng phô trương hình thức tham quy
mô lớn, chạy theo số lượng; xóa bỏ nhanh tình trạng quy hoạch treo gây lãng phí đất và
gây ra nhiều bức xúc trong người dân, thay vào đó là chủ yếu phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp trọng điểm, sử dụng nhiều lao động và giảm bớt diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi, nhất là những vùng đất đai màu mỡ, đảm bảo an toàn lương thực.
Đặc biệt, gắn quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị với việc tổ chức tốt các
khu tái định cư, ổn định cuộc sống và tạo việc làm mới cho người lao động bị thu hồi đất
nông nghiệp.
Hai là, đặc biệt chú trọng tới chính sách an dân, bởi đây là mấu chốt của vấn đề trong
quá trình thực hiện công tác đền bù giải tỏa diện tích đất nông nghiệp. Vì vậy, cần quản lý
chặt chẽ và thực hiện dân chủ hóa quá trình thu hồi đất đất nông nghiệp, đồng thời kiểm tra
việc sử dụng đất nông nghiệp cho đúng mục đích, quy hoạch phát triển khu công nghiệp,
khu đô thị, phục vụ các cơ sở kinh tế - xã hội trong huyện. Xử lý nghiêm và kịp thời đối
với những đối tượng, đặc biệt là các cán bộ, công chức lợi dụng vấn đề thu hồi đất nông
nghiệp, các chương trình, quỹ giải quyết việc làm để làm giàu bất chính, hạch sách, nhũng
nhiễu người dân. Nếu thực hiện tốt vấn đề này sẽ giảm được đáng kể tình trạng khiếu kiện
kéo dài trong dân, nâng cao niềm tin của dân vào chính sách, nghị quyết của tỉnh, huyện,
qua đó tạo tiền đề để giải quyết việc làm cho người lao động trên cơ sở nắm rõ tâm tư
nguyện vọng của họ.
Ba là, cần có sự phối kết hợp sức mạnh giữa chính quyền, doanh nghiệp và nông dân
bị mất đất nông nghiệp. Về phía chính quyền, cần phát huy đồng bộ vai trò của các nhóm,
của cộng đồng, của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, vận động giúp
từng người dân nắm rõ các chủ trương của tỉnh, huyện về thu hồi đất nông nghiệp, các
chính sách về hỗ trợ giải phóng mặt bằng, các chương trình đào tạo việc làm trong tương
lai. Nêu cao phương châm: ở đâu phát sinh khó khăn, vướng mắc, ở đó có tổ dân phố, Hội
phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ quốc... Về phía doanh nghiệp,
cần nhấn mạnh tới trách nhiệm tham gia đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động
có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi của doanh nghiệp đầu tư vào khu kinh tế.
Bốn là, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lao động địa phương,
lao động vùng thu hồi đất. Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, thường
xuyên tiến hành rà soát, điều chỉnh hệ thống các thủ tục hành chính và quy trình tiếp nhận,
xử lý hồ sơ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có cam kết hỗ trợ đào tạo
100 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH
và sử dụng lao động tại địa phương, theo hướng đơn giản hóa và rút ngắn thời gian thụ lý.
Trong đó, tập trung vào hai khâu chủ yếu là cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
Giấy chứng nhận đầu tư qua trung tâm giao dịch "một cửa liên thông". Bên cạnh đó, các
nhà đầu tư vào huyện sẽ được hỗ trợ cung cấp lao động đã qua đào tạo, hoặc doanh nghiệp
có nhu cầu riêng sẽ được cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo từ một phần ngân sách của tỉnh nếu sử
dụng từ 100 lao động địa phương trở lên như cách làm của tỉnh Hải Dương.
Năm là, chính sách phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào đẩy nhanh khả năng
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động. Do đó, Trường Đại học
Hà Tĩnh phải là đầu tàu trong việc tạo mối liên kết với các trường đại học khác có chất
lượng và uy tín để đào tạo nguồn nhân lực cho huyện Kỳ Anh, tập trung vào các chuyên
ngành như: Công nghệ chế tạo máy, Kỹ thuật tuyển khoáng, Kỹ thuật điện, điện tử, Kỹ thuật
xây dựng Còn các Trường như: Cao đẳng nghề Việt - Đức Hà Tĩnh, Cao đẳng nghề Vũng
Áng, Trung cấp nghề Hà Tĩnh... căn cứ vào nhu cầu của các bên sử dụng lao động, phối hợp
với Trường Đại học Hà Tĩnh để triển khai đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực.
Sáu là, tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp người lao động bằng cách duy trì và
phát triển thường xuyên ngày hội việc làm, hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm, nhằm
tạo điều kiện cho lực lượng lao động trẻ và người sử dụng lao động hiểu biết lẫn nhau, có
cơ hội tìm được việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và tuyển dụng lao động.
Bảy là, thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động về học
nghề, giải quyết việc làm để người lao động chủ động tham gia học nghề, qua đó nâng cao
ý thức, đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật lao động. Bởi vì, có một thực tế hiện nay đang xảy
ra là, một số nước không còn tiếp nhận lao động có hộ khẩu Hà Tĩnh do ý thức kỷ luật lao
động của những người này quá kém. Trong khi đó, một số doanh nghiệp trong nước ở khu
vực phía Nam cũng đã thể hiện sự kỳ thị đối với người lao động có hộ khẩu Hà Tĩnh.
Thậm chí, số lao động có hộ khẩu Hà Tĩnh làm việc tại các công trình của Formosa, Nhiệt
điện Vũng Áng rất ít vì chất lượng thấp, trình độ ngoại ngữ kém và thiếu tính chuyên
nghiệp trong khi làm việc.
KẾT LUẬN
Tốc độ đô thị hóa ở Kỳ Anh bắt đầu diễn ra mạnh mẽ, với sự ra đời của Cảng Vũng
Áng, Cảng Sơn Dương, Khu nhiệt điện Vũng Áng và Dự án siêu quốc gia Formosa đã làm
diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Trong bối cảnh như vậy, lao động
nông thôn bị thu hồi đất nông nghiệp với những đặc điểm nổi bật như mức sống thấp,
không đồng đều, trình độ học vấn thấp cùng trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa cao là
những người chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất về việc làm.
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 2 101
Vì vậy, để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa,
bên cạnh những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế địa
phương đã ban hành, huyện Kỳ Anh cần nghiên cứu, vận dụng có chọn lọc những kinh
nghiệm của một số tỉnh, thành phố về tạo việc làm cho người lao động nông thôn trong
quá trình đô thị hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Kim Cam (2009), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị mất đất ở
bốn huyện phía Tây Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Học viên Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
[2]. Đặng Xuân Thao Mối (2000), Quan hệ giữa dân số và việc làm ở nông thôn Đồng bằng
Sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Viện xã hội
học - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Thị Thơm (2008), Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa ở Hải Dương, Đề tài cấp Bộ năm 2007, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[4].
yen_thong?p_pers_id=&p_folder_id=14727462&p_main_news_id=15629744
[5].
[6].
[7].
Ngày nhận bài báo: 17/6/2013
Ngày phản biện xong: 15/7/2013
Người phản biện: GS.TS Nguyễn Văn Đính
102 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH
QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG
VỀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀO GIẢNG DẠY NỘI
DUNG ĐƯỜNG LỐI CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
XÃ HỘI TRONG MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nguyễn Thị Ngân1
TÓM TẮT
Công bằng xã hội luôn là mục tiêu nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta từ khi thành
lập đến nay. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã từng bước thực hiện công bằng xã hội và
đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, nhận thức về con đường đi đến
mục tiêu ấy có sự thay đổi qua các kỳ Đại hội Đảng, nhất là từ Đại hội VI đến Đại hội XI.
Đặc biệt, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
ở nước ta, quan điểm, chủ trương và nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XI về thực hiện
công bằng xã hội luôn là định hướng đúng đắn để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khi đề cập đến việc quán triệt Nghị quyết Đại hội XI vào giảng dạy môn Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), bài báo nghiên cứu và làm rõ hai khía
cạnh: công bằng xã hội nhìn từ góc độ phân phối và tiếp cận cơ hội để phát triển.
Từ khoá: Nghị quyết của Đảng, đường lối cách mạng.
ABSTRACT
Social justice is always a consistent goal of our Party since its inception. On the
basis of Marxism-Leninism and Ho Chi Minh’s thoughts, our Party has been gradually
implementing social justice and has received the support of the majority of the people in
the struggle for national independence in the past and in the construction of the country
today. However, awareness of the road to that goal has changed through the Congress
Parties, especially between the Congress VI and Congress XI. In terms of economic
development-oriented market socialism in our country today, the views, guidelines and
awareness of the Party on the implementation of social justice is always the right direction
1 ThS, Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Hồng Đức
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 2 103
for the successful implementation of the innovation, industrialization and modernization of
the country.
Key words: Resolution, revolutionary way.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và đáng tự
hào với diện mạo mới đang hình thành rõ nét: đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Thế và lực của nước ta
ngày càng vững mạnh; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên,
tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Kinh tế phát triển chưa bền vững. Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã
hội, nhưng tăng trưởng kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường không tránh khỏi dẫn đến
phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong quá trình phát triển giữa các
vùng miền và nhóm lợi ích kinh tế. Từ đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để thực hiện tốt
công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
đang là vấn đề có tính cấp bách hiện nay. Đại hội lần thứ XI, ĐCSVN đã thể hiện rõ quan
điểm của Đảng ta về vấn đề đã nêu. Vì vậy, việc cập nhật bổ sung đường lối, chủ trương
của Đảng tại Đại hội XI là một yêu cầu cấp thiết khi giảng dạy môn Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm giúp cho sinh viên hiểu được một cách có hệ thống
tiến trình nhận thức của Đảng về thực hiện công bằng xã hội thời kỳ đổi mới.
Trong bài viết này, để đưa vào giảng dạy chương VII, phần Quan điểm về giải quyết các
vấn đề xã hội, khi giảng về quan điểm: gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, và chính sách xã hội được thực hiện trên cơ
sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ,
tác giả chỉ đề cập đến hai khía cạnh cần quán triệt tinh thần Đại hội XI của Đảng ta, đó là:
công bằng xã hội nhìn từ góc độ phân phối và tiếp cận cơ hội để phát triển.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Quan điểm của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội X
Tại Đại hội VI của Đảng với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, Đảng ta đã
nghiêm khắc tự phê bình về những chủ trương, chính sách sai lầm trước đây, trong đó có
vấn đề liên quan trực tiếp đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tính chất và trình độ phát
triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội đã đề ra bước đầu việc xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và
104 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH
chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh. Kiên trì và quyết liệt thực hiện sự nghiệp đổi mới, đổi mới chính
trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện Đại hội VII, VIII, IX,
X, Đảng ta đều khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát
triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”1 vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện
ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc
tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng
trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mới đề cập đến
quan điểm của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội X mà chưa cập nhật được nhận thức của
Đảng tại Đại hội XI. Việc bổ sung, cập nhật kiến thức mới là một yêu cầu và cũng là việc
làm thường xuyên của giảng viên.
2. Quan điểm, chủ trương và nhận thức mới của Đảng tại Đại hội lần thứ XI và
việc quán triệt Nghị quyết Đại hội XI vào giảng dạy môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Để quán triệt nghị quyết Đại hội XI vào giảng dạy, làm cho sinh viên hiểu được một
cách có hệ thống quan điểm của Đảng về thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường hiện nay ở Việt Nam, trước hết, cần làm rõ khái niệm công bằng xã hội.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin, dưới chủ nghĩa xã hội, công bằng
xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội chủ yếu về phương diện
phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau. Khi đề cập đến nguyên tắc phân phối dưới chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: CNXH là công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ
chăm nom. Như vậy, vào thời của mình, C.Mác, V.Lênin cũng như Hồ Chí Minh chủ yếu
nói về công bằng xã hội thể hiện tập trung ở chế độ phân phối theo lao động dưới chủ
nghĩa xã hội.
Tại Đại hội XI, công bằng xã hội được hiểu không chỉ giới hạn ở công bằng về kinh
tế mặc dù đây là yếu tố nền tảng, mà còn công bằng trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa,
xã hội. Công bằng xã hội là một giá trị cơ bản định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 85
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 2 105
giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống
hiến về vật chất và tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang
nhau những giá trị vật chất và tinh thần do xã hội tạo ra, phù hợp với khả năng hiện thực
của đất nước. Song, vì hoàn cảnh của mỗi người khác nhau, cho nên việc tạo điều kiện cho
mọi người, nhất là những người trong hoàn cảnh khó khăn đều có cơ hội tiếp cận công bằng
trong các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về
giáo dục, y tế, việc làm, thông tin mang tính an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm hiện nay.
Thứ hai, cần xác định vai trò của công bằng xã hội đối với sự phát triển đất nước.
Công bằng xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Đảng ta coi
chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi
năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để công
bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
Công bằng xã hội không có nghĩa là “cào bằng” thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia
đều cho mọi người các nguồn lực và của cải do xã hội làm ra, bất chấp chất lượng hiệu quả
của sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của cộng
đồng. Đã có thời kỳ, do cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu nên chúng ta đã chọn nguyên
tắc phân phối bình quân về lợi ích đối với mọi tầng lớp nhân dân, coi đó là giải pháp cần
thiết để thực hiện công bằng xã hội. Thực tế cho thấy, việc thực hiện công bằng xã hội dựa
trên nguyên tắc bình quân này chỉ phù hợp trong điều kiện đất nước có chiến tranh, còn
trong hoàn cảnh đất nước bình thường, nền kinh tế đang tăng trưởng thì đây lại là sự trở
ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, cần chỉ ra quan điểm, chủ trương và nhận thức mới của Đảng tại Đại hội XI
về thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực phân phối và tiếp cận cơ hội phát triển.
Hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả, thực
hiện công bằng xã hội “ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Để xoá bỏ
quan điểm “cào bằng”, trong nền kinh tế này chế độ phân phối phải căn cứ theo chất lượng
và hiệu quả lao động là chính, đồng thời phân phối theo các nguồn lực đóng góp cho sản
xuất và kinh doanh, và phúc lợi xã hội. Phù hợp với nền kinh tế đó, công bằng xã hội được
hiểu là có sự tương xứng giữa cống hiến (cả hiện tại và quá khứ, cả về vật chất và tinh
thần) và hưởng thụ cũng như công bằng trong cơ hội và điều kiện phát triển. Đề cập vấn đề
này, Văn kiện Đại hội XI viết: “Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận
106 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH
và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển”1. Quan điểm này đã xác định nội dung của
công bằng xã hội trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công bằng trong phân
phối, bao gồm cả việc phân phối tư liệu sản xuất và phân phối kết quả làm ra.
Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất là bảo đảm mọi thành phần kinh tế,
mọi loại hình doanh nghiệp, mọi người lao động đều có quyền bình đẳng trước pháp luật
trong việc sử dụng đất đai, tài nguyên, vốn và các tài sản công. Quyền đó được thể chế hóa
và được bảo đảm bằng pháp luật. Về vấn đề này, Đại hội XI nhấn mạnh: “Đổi mới, hoàn
thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất
đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác... Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử
dụng theo nguyên tắc hiệu quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước”2.
Trong các yếu tố sản xuất, yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu là sức lao động. Cho
nên, công bằng trong cơ hội tiếp cận với các yếu tố sản xuất tất yếu bao hàm sự công bằng
trong việc tiếp cận nguồn lao động. Đáp ứng nhu cầu đó, việc phát triển, hoàn thiện, nâng
cao chất lượng của thị trường lao động và có cơ chế thích hợp tạo không gian rộng rãi cho
người lao động làm chủ sức lao động của mình là một việc làm có ý nghĩa thực tiễn bức
xúc ở nước ta. Ở nước ta hiện nay, có tình trạng dịch chuyển lao động từ khu vực nhà nước
sang khu vực tư nhân, sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và một số người được ra
nước ngoài đào tạo với trình độ chuyên môn cao đã không về nước làm việc. Đã đến lúc
cần có cách nhìn nhận khách quan đối với tình trạng đó. Đại hội XI xem mọi thành phần
kinh tế hoạt động hợp pháp đều là bộ phận cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Người lao
động làm ở thành phần kinh tế nào cũng đều “ích nước, lợi nhà”. Sự phát triển của mọi loại
hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa cần được xem là thước đo đánh giá tính đúng đắn của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội do Đảng hoạch định, do Nhà nước điều hành thực hiện và cũng là thước đo
mức độ giải phóng năng lực sáng tạo của nhân dân.
Về công bằng trong phân phối kết quả làm ra, Đại hội XI khẳng định: "Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội"3.
Hiện nay, mỗi thành viên bình thường trong xã hội bắt buộc phải lao động và sự
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.206
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.109
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 74
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 2 107
hưởng thụ của họ được phân phối theo sự đóng góp sức lao động về số lượng và chất
lượng. Điều này có nghĩa là, những người khác nhau nhưng cống hiến ngang nhau thì
hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những người có đóng
góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những cống hiến
của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối phân
phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước
ta thời kỳ trước đổi mới, những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,...
cũng cần và phải tính đến. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy
nhằm khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc
đẩy sự phát triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác, phân phối thông qua các quỹ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là tất yếu trong điều
kiện hiện nay ở nước ta. Mặt khác, những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh
tế, như nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng. Bên cạnh đó,
dưới tác động của các quy luật thị trường, sự đóng góp nguồn lực vào quá trình sản xuất,
kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải xã hội thỏa mãn lợi ích cá nhân
và xã hội. Do đó, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác như trí tuệ, tài sản, đất đai, tư
liệu sản xuất,... cũng là một căn cứ quan trọng trong việc thực hiện phân phối hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
(bổ sung và phát triển năm 2011) cũng khẳng định: bảo đảm công bằng và bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển
văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách, phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng
cao thể chất gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi
ích tập thể và cộng đồng xã hội. Cương lĩnh nêu chủ trương nhất quán của Đảng ta là “tạo
môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn, có chính
sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển. Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các
vùng miền, các tầng lớp dân cư, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội...”1 .
Công bằng xã hội còn đòi hỏi phải thừa nhận và tạo điều kiện cho mọi người, mọi
cộng đồng người và doanh nghiệp có điều kiện tác động để tạo ra các cơ hội, điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển, đồng thời bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội ấy. Đại hội XI
1 Văn ki
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_tro_luc_trong_hoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_cac_tr.pdf