Kinh tế Việt Nam đang đối mặt với những cơ hội và thách thức của cơ chế thị trường và toàn
cầu hóa. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại một số kết quả tích cực; như chương
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua đã góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, thay đổi tỷ trọng giữa các ngành. Song song đó, tiến trình hội nhập và sự tham gia ngày
càng sâu rộng của Việt Nam vào các tổ chức, diễn dàn quốc tế, đòi hỏi từng doanh nghiệp cần phải
có chiến lược phù hợp để thích nghi với môi trường kinh doanh mới, đáp ứng những đòi hỏi của
cạnh tranh.
Ra đời từ sự thay đổi về tư duy kinh tế sau chính sách Đổi mới năm 1986, doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) hiện là quy mô doanh nghiệp chiếm đa số, và là bộ phận quan trọng tạo ra tổng
sản phẩm quốc nội (GDP). Sự thay đổi và vận động không ngừng của nền kinh tế đã tạo nhiều điều
kiện DNNVV mở rộng sản xuất và phát triển kinh doanh, đồng thời cũng mang đến không ít khó
khăn thử thách. Do đó, đầu tư đổi mới là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của DNNVV.
Nội dung bài viết tập trung nghiên cứu các vấn đề mà DNNVV đang phải đối mặt đồng thời
nhận diện vấn đề cốt lõi nhất mà doanh nghiệp đang gặp phải. Do khó khăn về mặt số liệu, nghiên
cứu sẽ chỉ sử dụng số liệu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của thành phố Hồ Chí Minh để thực
hiện việc phân tích. Điều này không làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả nghiên cứu vì thành phố
Hồ Chí Minh là địa phương có nền kinh tế phát triển, đóng góp vào GDP cao nhất cả nước và số
lượng doanh nghiệp cũng nhiều nhất cả nước. Cuối cùng, một số giải pháp sẽ được đề xuất nhằm
giúp DNNVV vượt qua khó khăn để phát triển bền vững, góp phần vào sự tăng trưởng chung của
nền kinh tế.
10 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 10/05/2022 | Lượt xem: 440 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Những thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo ngắn hạn (dưới
6 tháng) (20 – 30%), đại đa số chỉ quản lý doanh
nghiệp thông qua quá trình thực tiễn. Bên cạnh
đó, đối với các DNNVV, văn hóa doanh nghiệp
cũng không được chú trọng.
– Thách thức xuất phát từ hạn chế về khả
năng tiếp cận thông tin
DNNVV muốn tồn tại và phát triển cần vận
hành theo đúng xu thế thị trường. Do đó, đòi hỏi
DN phải nắm bắt tốt được các thông tin về khách
hàng, nhu cầu tiêu dùng hiện tại, giá cả, đối thủ
cạnh tranh, công nghệ sản xuất mới, các chính
sách hỗ trợ từ các cơ quan quản lý nhà nước
Tuy nhiên, DNNVV gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận và ứng dụng các tri thức mới, do
chưa hình thành được bộ phận chuyên trách về
thu thập và xử lý thông tin, liên quan đến các
hạn chế về tài chính và nhân lực. Hiện hệ thống
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q2 - 2014
Trang 49
thông tin nước ta mặc dù được phổ biến rộng rãi
hơn so với trước đây, với rất nhiều kênh thông
tin, nhưng nhìn chung tính chất nhanh chóng,
kịp thời, đầy đủ vẫn chưa đáp ứng được những
yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Đồng thời,
DNNVV cũng gặp khó khăn trong việc kiểm
chứng độ tin cậy của chúng. Đây cũng là một
thách thức đối với DNNVV.
Chung quy, hạn chế lớn nhất của các doanh
nghiệp là tri thức và công nghệ. Về tri thức, đấy
là hạn chế của chủ doanh nghiệp, các nhà quản
lý và hạn chế của người lao động. Điều này dẫn
đến những hạn chế về mặt công nghệ: Công nghệ
sản xuất và công nghệ quản lý. Những hạn chế
này là hạn chế cốt lõi. Vì bản thân các DNNVV
là các thực thể có tính thích nghi rất cao, những
khó khăn từ bên ngoài hoàn toàn có thể được
biến thành những cơ hội. Tuy nhiên, tri thức là
yếu tố bên trong, là sức mạnh nội tại quan trọng
nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi
doanh nghiệp không làm chủ được tri thức, họ
hoàn toàn có thể phá sản trước các biến động của
môi trường kinh doanh. Do vậy, điều cần thiết là
phải đánh giá lại khả năng làm chủ tri thức của
doanh nghiệp, sự sẵn sàng hấp thụ các tri thức
mới của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Qua đó, hiểu
rõ hơn về khối doanh nghiệp này, khối doanh
nghiệp đã và đang là động lực chính để phát triển
nên kinh tế.
6. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI
DNNVV
Sau khi phân tích về những thực trạng mà
DNNVV phải đối mặt trong giai đoạn hiện nay,
tác giả xin đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ
DNNVV nâng cao khả năng cạnh tranh, hướng
đến phát triển bền vững, cụ thể như sau:
– Tăng cường mở rộng liên kết hợp tác
Năng lực cạnh tranh sẽ gia tăng sau khi các
doanh nghiệp thực hiện liên kết trong sản xuất
kinh doanh. Đồng thời, công tác phân công lao
động sẽ giải quyết khó khăn về nguồn lực tài
chính, do tiết giảm chi phí đầu tư máy móc thiết
bị. Chất lượng sản phẩm gia tăng từ kết quả của
hoạt động chuyên môn hóa cao. Ngoài ra, việc
các doanh nghiệp chia sẻ thông tin, tận dụng
mạng lưới phân phối và thế mạnh của nhau để
gia tăng thị phần, cũng sẽ giúp các DNNVV đối
mặt với các thách thức về thị trường. Mặt khác,
cần nâng cao hơn nữa vai trò đặc biệt quan trọng
của các hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ doanh
nhân trong việc kết nối các doanh nghiệp, giao
lưu trao đổi thông tin, hỗ trợ phát triển chuyên
môn, đẩy mạnh xúc tiến thương mại trong và
ngoài nước.
– Nâng cao trình độ và năng lực nhà quản
lý
Quá trình cạnh tranh khốc liệt trên thị trường
đòi hỏi phải tăng cường đào tạo về kiến thức,
trình độ quản lý và nghiệp vụ kinh doanh cho
chủ doanh nghiệp. Nhà quản lý của các DNNVV
phải nỗ lực rèn luyên kỹ năng thu thập, tổng hợp,
phân tích, đánh giá các loại thông tin kinh tế trị
trường; để đề ra những quyết định và chiến lược
đúng đắn kịp thời; cũng như điều hành, giám sát
tốt hoạt động của doanh nghiệp.
– Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao
DNNVV cần đẩy mạnh công tác đào tạo công
nghệ – kỹ thuật tiên tiến và nâng cao tay nghề
người lao động. Chất lượng đội ngũ nhân sự gia
tăng sẽ đưa đến nhiều thuận lợi trong việc đổi
mới quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm, cũng như triển khai phát triển sản phẩm
mới, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Song
song đó, chế độ lương thưởng và đãi ngộ đối với
nhân tài cần nhận được sự quan tâm đúng mức.
– Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ của các
cơ quan quản lý nhà nước
Để giúp các DNNVV duy trì hoạt động kinh
doanh và phát triển bền vững, các ngành, các
Science & Technology Development, Vol 17, No.Q2 - 2014
Trang 50
cấp chính quyền cần hoàn thiện các hành lang
pháp lý, và đề ra các chủ trương, biện pháp hỗ
trợ cụ thể. Một số chính sách có thể kể đến như
tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn,
hỗ trợ lãi vay, ưu đãi thuế suất,. Đồng thời,
các cơ quan quản lý nhà nước cần đơn giản, quy
trình hóa và công khai các thủ tục hỗ trợ này đối
với DNNVV.
– Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin, tri
thức mới của DNNVV
Khả năng tiếp cận thông tin là yếu tố quan
trọng để DNNVV nâng cao năng lực cạnh
tranh, do đó cần xây dựng và phát triển một hệ
thống cung cấp thông tin hoàn thiện. Trong đó,
hệ thống này sẽ cung cấp các thông tin cần thiết
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp như
phương pháp hoạch định chiến lược, ra quyết
định đầu tư; thông tin về việc thay đổi hoặc ban
hành chính sách và pháp luật liên quan đến môi
trường đầu tư, kinh doanh; thông tin về trình tự,
thủ tục hành chính, tư pháp; thông tin về những
cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế Ngoài
ra, tự bản thân doanh nghiệp phải nỗ lực trong
việc hình thành và phát triển bộ phận thu thập và
xử lý thông tin chuyên nghiệp.
Kết luận và gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo
DNNVV có những ưu điểm nổi bật mà các
loại hình khác không có được, như tính linh hoạt
năng động, khả năng thích nghi nhanh chóng với
các biến động của thị trường, dễ thay đổi công
nghệ, hiệu quả đầu tư tương đối cao, bộ máy
quản lý đơn giản, gọn nhẹ. Sự gia tăng mạnh về
số lượng DNNVV trong thời gian qua đã minh
chứng cho điều đó. DNNVV ngày càng khẳng
định vai trò của mình trong phát triển kinh tế.
Song song đó, chính bởi các đặc điểm quy mô
nhỏ, vốn ít, cấu trúc tổ chức không hoàn chỉnh,
thiếu định hướng chiến lược phát triển dài hạn,
trình độ đội ngũ lao động thấp, DNNVV đối mặt
với không ít thách thức.
Nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV phát
triển ổn định trong bối cạnh hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, các
cơ quan quản lý nhà nước cần triển khai các
chính sách, chương trình hỗ trợ, giúp DNNVV
vượt qua khó khăn, nâng cao năng lực cạnh
tranh, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững. Vai
trò cầu nối của các hiệp hội ngành nghề cũng
hết sức quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh các
biện pháp hỗ trợ từ các đơn vị khác, nỗ lực của
DNNVV mới chính là yếu tố quyết định. Bản thân
DNNVV phải có sự tự vận động cải tiến, đầu tư
khoa học – công nghệ hiện đại, nâng cao năng
lực nhà quản lý và trình độ người lao động,
gia tăng năng suất lao động và khả năng cạnh
trạnh Đặc biệt, DNNVV cần phải ý thức đúng
mức về tầm quan trọng của tri thức, nhằm tiếp
cận và ứng dụng tri thức đó vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Điều đó đồng nghĩa DNNVV
phải sẵn sàng trong hấp thụ tri thức mới.
Bài báo được thực hiện trên cơ sở dữ liệu chủ
yếu là về các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói chung trong
giai đoạn 2006-2012. Mặc dù, với trên 150.000
doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm 2013), Thành
phố Hồ Chí Minh được xem là địa bàn có nhiều
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất của cả nước; tuy
nhiên, một nghiên cứu với quy mô mở rộng trên
phạm vi cả nước và với các số liệu cập nhật cho
năm 2013 và nửa đầu năm 2014 sẽ giúp mang
lại cái nhìn toàn diện và cập nhật hơn về chủ
đề nghiên cứu. Ngoài ra, các nghiên cứu sâu về
từng đối tượng lĩnh vực, ngành nghề quan tâm
cũng sẽ giúp mang lại những kết quả chính xác
hơn cho từng lĩnh vực, ngành nghề cụ thể.
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q2 - 2014
Trang 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bùi Thị Thu Hà (2011), Phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay, Hội thảo khoa học Hội
nhập: Hợp tác và cạnh tranh, Trường Đại học
Thương mại và trường Cao đẳng Kinh tế Đối
ngoại, trang 588 – 598.
[2]. Cao Sỹ Kiêm (2013), Doanh nghiệp nhỏ
và vừa: Thực trạng và giải pháp hỗ trợ năm
2013, Tạp chí số 2 năm 2013.
[3]. Tổng cục Thống kê (2009), Thực trạng
doanh nghiệp qua kết quả điều tra, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội.
[4]. Tổng cục Thống kê (2010), Thực trạng
doanh nghiệp qua kết quả điều tra, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội.
[5]. Võ Đức Toàn (2012), Tín dụng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa của các ngân
hàng thương mại cổ phần trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ,
Đại học Ngân hàng, thành phố Hồ Chí
Minh.
[6]. Võ Phước Tân (2011), Doanh nghiệp
nhỏ và vừa với mục tiêu chiến lược cạnh
tranh bằng sản phẩm mới, Hội thảo khoa
học Hội nhập: Hợp tác và cạnh tranh,
Trường Đại học Thương mại và trường
Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại, trang 245
– 255.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_thach_thuc_dat_ra_cho_cac_doanh_nghiep_nho_va_vua_viet.pdf