Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan
trọng nhất là bạn phải tránh được những sai lầm chết
người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu các hành vi
tài chính của các nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích
hay phản ứng của họ trước các thông tin tài chính, để tìm
ra nguyên nhân dẫn đến các sai lầm này.
Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà ngay cả các
chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai
lầm khi đầu tư chứng khoán. Vì dù có giỏi đến đâu chăng
nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng
thịt. Hy vọng những nghiên cứu về các hành vi tài chính
này sẽ giúp ích cho các nhà đầu tư.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Những sai lầm thường gặp của nhà đầu tư chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những sai lầm thường gặp của
nhà đầu tư chứng khoán
Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan
trọng nhất là bạn phải tránh được những sai lầm chết
người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu các hành vi
tài chính của các nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích
hay phản ứng của họ trước các thông tin tài chính, để tìm
ra nguyên nhân dẫn đến các sai lầm này.
Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà ngay cả các
chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai
lầm khi đầu tư chứng khoán. Vì dù có giỏi đến đâu chăng
nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng
thịt. Hy vọng những nghiên cứu về các hành vi tài chính
này sẽ giúp ích cho các nhà đầu tư.
Những sai lầm lớn nhất
Những sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thường mắc
phải là:
- Quá tự tin vào khả năng dự đoán trước diễn biến của thị
trường và hoạt động của các quỹ đầu tư.
- Quá trung thành với những thất bại.
- Chỉ nhìn thấy lãi.
- Quá thiển cận.
- Phớt lờ những chi phí theo thời gian.
Nếu biết nhìn nhận sâu sắc hơn về những sai lầm có thể
mắc phải cũng như những ảnh hưởng của chúng đối với
việc kinh doanh, bạn sẽ dễ dàng thành công hơn.
Quá tự tin
Hầu hết mọi người đều quá tự tin. Một nghiên cứu đã chỉ
ra rằng con người thường đánh giá quá cao những khả
năng của bản thân mình. Thậm chí, nhiều người còn cho
rằng mình luôn cao hơn người khác một cái đầu. Nếu xét
về giới tính thì đàn ông có xu hướng tự tin hơn phụ nữ rất
nhiều.
Sự tự tin đúng mực mang lại nhiều lợi ích cho con người
trên một số lĩnh vực của cuộc sống. Một người tự tin có xu
hướng vui vẻ và làm việc chăm chỉ hơn những người
khác. Họ cũng có khả năng đương đầu tốt hơn với những
khó khăn trong cuộc sống.
Tuy nhiên, quá tự tin trong đầu tư lại hết sức nguy hiểm
bởi vì thị trường chứng khoán là nơi mà mọi thứ có thể
thay đổi ngay trong tíc tắc.
Quá tự tin thường dẫn tới việc kinh doanh vượt quá khả
năng nguồn vốn. Việc mười triệu quỹ cổ phiếu được trao
đổi, giao dịch trao tay mỗi ngày đã thể hiện xu hướng kinh
doanh đó của các quỹ đầu tư. Ai cũng có quyền hy vọng
rằng, bằng việc tích cực mua bán các quỹ tương hỗ, họ có
thể trở thành một Peter Lynch thứ hai (người được mệnh
danh là nhà quản lý tiền số một thế giới đã phát triển Quỹ
Magellan Fund từ 20 triệu đôla năm 1977 lên đến mức 14
tỷ đôla năm 1990). Khoản thù lao hậu hĩnh cho môi giới có
thể cho phép nhiều cá nhân hấp tấp, vội vàng nhảy từ quỹ
này sang quỹ khác chỉ sau một cuộc điện thoại hoặc vài
cú click chuột. Nhà đầu tư quá tự tin cũng có thể chơi trò
đánh cược lớn bằng cách tập trung vào một quỹ ưa thích
hoặc thậm chí dùng biện pháp cầm cố chứng khoán để
lấy tiền đầu tư (margin trading).
Sự tự tin có xu hướng thay đổi theo các chu kỳ lên xuống
của thị trường chứng khoán. Nói chung, những nhà đầu
tư nhập cuộc thị trường chứng khóan vào cuối thập niên
90 – khi cổ phiếu được các nhà đầu tư ôm vào để đầu cơ
và làm giá, được đánh giá là tự tin hơn rất nhiều so với
các nhà đầu tư thời nay.
Sự thành công của nhiều nhà đầu tư trong thời điểm thị
trường đầu cơ giá lên đó chính là kết quả của sự quá tự
tin, chứ không phải có kỹ năng giỏi như nhiều người khi
đó lầm tưởng. Lòng tự hào của một cá nhân đạt được
những thành công liên tiếp sẽ có thể nhân sự tự tin lên
nhiều lần. Và trong thực tế, đối với một nhà đầu tư thành
công, ngoài khả năng tự tin thì yếu tố may mắn nhiều khi
vẫn đóng vai trò quan trọng hơn kỹ năng.
Tuy nhiên, sau khi giá cả thị trường đạt tới tột đỉnh vào
cuối 1999 đầu năm 2000, thì nhiều cổ phiếu rơi vào tình
trạng giảm giá không thể kiểm soát được. Kể từ khi đó, sự
tự tin và hoạt động thương mại của các nhà đầu tư giảm
đi một cách đáng kể.
Quá trung thành với những thất bại
Tất cả mọi người đều không thích sự thất bại. Nhiều
người sẽ không chấp nhận sự thất bại trong đầu tư chừng
nào họ chưa thu lại được vốn đầu tư ban đầu khi mua
được cổ phiếu với giá gốc (get-even). Thất bại thực sự
làm tổn thương lòng tự trọng. Trên thực tế, có nhiều nhà
đầu tư lỗ vốn hơn là hòa vốn, chứ chưa nói gì đến có lãi.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nỗi đau của việc mất
$10.000 bằng hai lần niềm hạnh phúc khi nhận được
$10.000. Vì vậy, mọi người luôn cố gắng để tránh những
cảm giác hối tiếc và đau đớn về mặt tâm l ý.
Tuy không thích sự thất bại, nhưng mọi người lại thường
không phân tích nguyên nhân thất bại một cách hợp lý.
Trớ trêu thay, những người thất bại, khi càng cố gắng
giảm thiểu sự thất bại, họ lại càng làm gia tăng những
nguy cơ rủi ro. Giống như những con bạc khát nước, các
nhà đầu tư tiềm năng thường tăng khoản cá cược của họ
lên khi đang may mắn để kéo dài vận may của mình. Một
người bốc đồng có thể vội vàng nhân đôi số cổ phiếu của
một quỹ không ổn định (có thể giảm giá tới 50%) để giảm
mức chi phí trung bình khi mua cổ phiếu đó. Nhưng giá
thấp có thể trở nên thấp hơn nữa.
Ngay kể cả các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng ít nhiều bị
ảnh hưởng bởi tâm lý sợ thất bại. Những nhà quản l ý quỹ
có thể sẽ gặp rủi ro lớn hơn trong những thời kỳ quỹ phải
chịu tỷ lệ chi phí cao hoặc cổ phiếu liên tục rớt giá.
Hội chứng “get-even” này có thể rất bất lợi cho các nhà
đầu tư tài chính giỏi. Nếu việc đầu tư không thuận lợi, họ
kiên định và hy vọng sẽ có bước đột phá. Họ có thể tránh
bị rơi vào trạng thái hối tiếc vì sợ mình là một nhà đầu tư
tồi nên đã vội vã bán quỹ đầu tư đi ngay khi nó xuống giá.
Bởi vì, nếu bán thì họ đã kết thúc quá trình đầu tư bằng
sự thất bại, còn nếu không bán, họ còn có hy vọng nó sẽ
phục hồi và biết đâu nó sẽ phục hồi thật. Nhưng sự kiên
nhẫn cũng phải có một giới hạn nhất định.
Giả sử bạn muốn nhân tiền của bạn lên gấp đôi trong 8
năm. Như vậy, trung bình mỗi năm bạn phải đạt lợi nhuận
ở mức 9,05%. Tuy nhiên, nếu bị mắc kẹt vào những kế
hoạch vô dụng, không mang lại lợi nhuận như mong
muốn, bạn sẽ càng khó khăn hơn để đạt được mục tiêu
ban đầu. Ví dụ, nếu giá trị đầu tư của bạn bị trượt giá 25%
trong năm năm đầu, có nghĩa là bạn phải đạt được sự
tăng trưởng lợi nhuận 38,67%/năm trong ba năm còn lại
để đạt được mục tiêu đề ra là tăng gấp đôi số tiền của
mình trong 8 năm. Một sự đầu tư mà không có lãi sẽ gây
ra rất nhiều tổn thất nếu kéo dài. Với 0% doanh thu trong
suốt năm năm đầu tiên thì bạn phải kiếm được 25,99% lợi
nhuận trong những năm còn lại để gấp đôi số tiền trong 8
năm theo kế hoạch.
Về mặt tâm l ý của các nhà đầu tư, họ vẫn nuôi hy vọng
vào một phép diệu kỳ nào đó. Bằng cách suy nghĩ tích
cực, nhà đầu tư có thể đương đầu với những thất bại tốt
hơn. Thay vì suy nghĩ “nếu bán tức là tôi sẽ thừa nhận sự
thất bại nhục nhã to lớn”, hãy nghĩ đơn giản “Tôi sẽ
chuyển tài sản của tôi sang một mục đích sử dụng hiệu
quả hơn”. Câu nói này tương đối hữu ích nếu bạn đang cố
gắng thuyết phục một ai đó chấp nhận sự thất bại một
cách dễ dàng hơn.
Chỉ nhìn thấy lãi
Không có gì là khiếm nhã khi nói rằng nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng con người rất nhanh nhạy trong việc thu về
những lợi ích cho mình. Niềm tự hào và sự hối tiếc luôn
song hành trong suy nghĩ của họ.
Ví dụ, một nhà đầu tư nhìn thấy một cổ phiếu tiềm năng
và anh ta muốn đưa nó vào danh mục vốn đầu tư của
mình. Nhưng để đầu tư vào cổ phiếu này anh ta sẽ phải
bán một cổ phiếu khác đi. Một nhà đầu tư “tìm kiếm sự tự
hào” thông thường sẽ bán cổ phiếu có lãi hơn là cổ phiếu
đang bị lỗ. Bằng cách bán một cổ phiếu ngay lập tức thu
được lợi nhuận, dù nhỏ sẽ đem lại cho các nhà đầu tư đó
cảm giác tự hào. Sự hối tiếc lúc này không được tính đến
và gạt sang một bên, do vậy anh ta giữ cổ phiếu đang bị
thua lỗ lại.
Khi cổ phiếu đang thua lỗ có dấu hiệu hồi phục, nhiều nhà
đầu tư lại bán nó quá nhanh để chỉ thu về được một
khoản lãi nhỏ hoặc thậm chí không có chút lãi nào. Bằng
việc nhanh chóng lấy về vốn, các nhà đầu tư đã loại bỏ cơ
hội thu được lợi nhuận cao hơn, mà đáng lý ra sẽ là phần
thưởng xứng đáng cho họ sau những thời kỳ “đau khổ”
kéo dài.
Quá thiển cận
"Sự thiển cận xuất phát từ tâm lý sợ thất bại” là một thuật
ngữ khác để chỉ những nhà đầu tư thiển cận và nó làm
những người có tầm nhìn xa cảm thấy xót xa. Những nhà
đầu tư thiển cận có xu hướng quá thận trọng khi sử dụng
tài sản của họ. Điều này rất phổ biến với những người
muốn có được những khoản tiết kiệm sau khi nghỉ hưu.
Một chân lý hiển nhiên là con đường dẫn tới những lợi
nhuận dài hạn thường bị ngắt quãng bởi những mất mát
ngắn hạn. Thị trường thay đổi nhanh chóng thường tạo ra
sức ép tâm l ý lớn. Những người quá lo lắng thường có xu
hướng bán đi những quỹ đầu tư chứng khoán rất có tiềm
năng ngay khi nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên của sự xuống
giá.
Một người quá thiển cận có thể nhanh chóng bán ra khi
giá trị trung bình của cổ phiếu trên thị trường giảm 5%
hoặc 10% trong một tuần. Người này sợ sẽ mất tất cả!
Thực tế thì giá cả thường sẽ tăng lên chỉ trong vòng vài
ngày hoặc vài tuần.
Có một quy tắc xác định mức độ rủi ro mà một cá nhân có
thể vấp phải như sau: “Lấy 110 trừ đi số tuổi của bạn”. Ví
dụ, một người 40 tuổi thì con số 70 (=110-40) là số phần
trăm rủi ro mà anh ta có thể gặp phải. Vì vậy, nếu đầu tư
ở tầm nhìn ngắn hạn, nhà đầu tư này tốt nhất chỉ nên đầu
tư một khoản tiền hết sức khiêm tốn (nếu có).
Phớt lờ những chi phí theo thời gian
Mọi người, đặc biệt là những người không hiểu biết về tài
chính thường không nhận biết được sự khác nhau rất lớn
giữa các con số, đặc biệt là những con số nhỏ. Bởi những
con số nhỏ đó theo thời gian sẽ trở thành những con số
khổng lồ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu, ví dụ
như là tỷ lệ chi phí quản lý cho khoản đầu tư của bạn
chẳng hạn. Và như bạn đã biết, lợi nhuận của một quỹ
bằng doanh thu của nó trừ đi chi phí, chi phí càng cao, lợi
nhuận càng thấp. Thông thường đối với các quỹ đầu tư,
tỷ lệ chi phí dành cho quản lý được dao động từ ít hơn
0,20% đến hơn 2%.
Giả sử một khoản đầu tư ban đầu là $10.000 cộng thêm
10% lợi nhuận. Một quỹ nội địa được quản l ý tốt với
1,25% tỷ lệ chi phí, sẽ lấy đi $895 (hay 5,55%) của
$16.105 tổng tài sản trong tương lai sau 5 năm. Ngược
lại, trong vòng 40 năm, tỷ lệ chi phí sẽ tiêu tốn mất
$166.062 của quỹ, chiếm tới 36,69% của $452.593 tổng
tài sản có được sau chừng ấy thời gian. Nói một cách
khác, số tiền còn lại chỉ bằng 63,31% tổng doanh thu.
Đối với danh mục quỹ nội địa, chi phí có mức ảnh hưởng
ít hơn rất nhiều. Với 0,20% tỷ lệ chi phí, một nhà đầu tư
sau đó có thể mất đến $31.775 trong 40 năm, bằng 7,02%
trị giá chỉ số index tương lai. Vì vậy, mức lợi nhuận của
danh mục sẽ là 92,98%. Vì vậy khi nhìn vào bảng danh
mục quỹ đầu tư và quỹ giao dịch thương mại, bạn cần
quan tâm đến các quỹ có tỷ lệ chi phí thấp, đặc biệt khi có
ý định đầu tư dài hạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_sai_lam_thuong_gap_cua_nha_dau_tu_chung_khoan.pdf