Wikipedia định nghĩa giáo dục mở như sau: “Giáo dục mở là
một khái niệm tổng hợp mô tả các thực hành và các sáng kiến với các
chương trình của các cơ sở giáo dục mà mở rộng sự truy cập tới việc
học tập và huấn luyện được chào theo truyền thống qua các hệ thống
giáo dục chính quy. Tính “mở” của giáo dục tham chiếu tới sự loại bỏ
các rào cản có thể loại trừ các cơ hội và sự công nhận để tham gia vào
việc học tập trong các cơ sở giáo dục. Một khía cạnh của tính mở trong
giáo dục hoặc “việc mở” giáo dục ra là sự phát triển và áp dụng các tài
nguyên giáo dục mở”.
Tài nguyên giáo dục được cấp phép mở là các tài nguyên học tập,
giảng dạy, và nghiên cứu nằm trong phạm vi công cộng hoặc đã được
phát hành theo giấy phép cho phép tự do sử dụng, sử dụng lại, sửa đổi
và chia sẻ chúng với những người khác [1].
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Những rào cản đối với xây dựng, phát triển tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG RÀO CẢN ĐỐI VỚI XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. Nguyễn Thị Ngọc1
1. TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
Quan niệm về tài nguyên giáo dục mở:
Wikipedia định nghĩa giáo dục mở như sau: “Giáo dục mở là
một khái niệm tổng hợp mô tả các thực hành và các sáng kiến với các
chương trình của các cơ sở giáo dục mà mở rộng sự truy cập tới việc
học tập và huấn luyện được chào theo truyền thống qua các hệ thống
giáo dục chính quy. Tính “mở” của giáo dục tham chiếu tới sự loại bỏ
các rào cản có thể loại trừ các cơ hội và sự công nhận để tham gia vào
việc học tập trong các cơ sở giáo dục. Một khía cạnh của tính mở trong
giáo dục hoặc “việc mở” giáo dục ra là sự phát triển và áp dụng các tài
nguyên giáo dục mở”.
Tài nguyên giáo dục được cấp phép mở là các tài nguyên học tập,
giảng dạy, và nghiên cứu nằm trong phạm vi công cộng hoặc đã được
phát hành theo giấy phép cho phép tự do sử dụng, sử dụng lại, sửa đổi
và chia sẻ chúng với những người khác [1].
Tài nguyên giáo dục mở (OER) là bất kỳ dạng tư liệu giáo dục nào
nằm trong phạm vi công cộng hoặc được giới thiệu với một giấy phép
mở. Bản chất tự nhiên của các tư liệu mở đó là bất kỳ ai cũng có thể tự
do và hợp pháp để sao chụp, sử dụng, tùy biến thích nghi và định hình lại
chúng. OER trải từ các sách giáo khoa cho tới chương trình giảng dạy,
1 Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên.
143PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
đề cương khóa học, các ghi chép bài giảng, các bài tập, bài kiểm tra, các
dự án, âm thanh, video và hoạt hình [2].
Tài nguyên giáo dục mở (OER) là các tư liệu có thể được truy cập,
sử dụng lại, sửa đổi và chia sẻ tự do để hỗ trợ cho việc dạy và học ở tất
cả các mức giáo dục [3].
Nói một cách dễ hiểu OER là thuật ngữ dùng để chỉ những tài liệu
giảng dạy, học tập và nghiên cứu được lưu giữ ở bất kỳ phương tiện
nào, dưới định dạng số hoặc in ấn, được cung cấp mở và miễn phí, để
nhà giáo và người học sử dụng, tái sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu
và học tập, không đi kèm nhu cầu phải trả tiền phí bản quyền hoặc phí
giấy phép. Nhờ vậy tạo điều kiện cho mọi người được tiếp cận miễn
phí, mọi lúc, mọi nơi.
Bản chất của OER là chia sẻ và khai thác mở, do vậy, cần có sự
tham gia tích cực của các trường đại học trong việc xây dựng các tài
liệu học tập mở. Một trường đại học không thể xây dựng được OER trừ
trường hợp họ có nguồn kinh phí rất lớn, nhưng cái họ tạo ra cũng chỉ
phục vụ cho các chương trình đào tạo mà họ cung cấp.
OER là nguồn lực lấp đi sự nghèo nàn về tri thức. Tài nguyên này
được chuyển tải trên mạng thông tin, phân phối đến từng người dùng,
không có trở ngại về địa lý và hàng loạt rào cản khác sẽ nhanh chóng lấp
đi các cái hố ngăn cách tri thức với người có nhu cầu về tri thức.
Vai trò của tài nguyên giáo dục mở đối với các trường đại học:
Hiện nay, đã có nhiều dịch vụ truy cập mở được triển khai khắp
nơi trên thế giới và Việt Nam. Dịch vụ truy cập mở đem đến cho người
dùng khả năng truy cập miễn phí các nguồn tài nguyên điện tử trên thế
giới, bao gồm tạp chí, sách điện tử, cơ sở dữ liệu. Việc triển khai OER
và truy cập mở góp phần hỗ trợ các trường đại học trong việc không
ngừng nâng cao chất lượng các nguồn tài nguyên giáo dục, làm cho hệ
thống ngày càng hiện đại và chất lượng hơn. Dựa trên sự đóng góp và
xây dựng từ nhiều phía như các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên,
chuyên gia giáo dục, OER ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
OER giúp các trường đại học cải thiện trên nhiều phương diện, trong đó
có thể thấy rõ nhất ở các phương diện sau:
144 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
OER giúp gia tăng sự bình đẳng. Tất cả các sinh viên có sự truy cập
tới các tư liệu học tập chất lượng cao với nội dung thích hợp và cập nhật
nhất vì các OER có thể được phân phối tự do cho bất kỳ ai.
OER giúp tiết kiệm chi phí. Việc chuyển sang các OER cho phép
các trường đại học tái mục đích tiền đầu tư cho các sách giáo khoa tĩnh
vào các nhu cầu cấp bách khác, như việc đầu tư để chuyển sang học tập
số. Trong nhiều trường hợp, việc thay thế chỉ một cuốn sách giáo khoa
có thể giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí sẵn sàng cho các mục đích khác.
OER giúp giữ cho nội dung thích hợp và chất lượng cao. Các cuốn
sách giáo khoa truyền thống bị lỗi thời đòi hỏi các trường phải tái đầu tư
phần đáng kể ngân sách của họ vào việc thay thế chúng. Các điều khoản
sử dụng các OER cho phép các nhà giáo dục duy trì chất lượng và sự
thích hợp các tư liệu của họ nhờ các cập nhật liên tục.
OER góp phần trang bị cho đội ngũ giảng viên, các nhà nghiên cứu
kho tàng tri thức phong phú, có thể truy cập dễ dàng hơn. Từ đó giúp
họ trở nên chuyên nghiệp, sáng tạo bằng việc trao cho họ khả năng tùy
biến thích nghi các tư liệu học tập để đáp ứng nhu cầu của sinh viên của
họ mà không vi phạm các luật bản quyền.
Việc cho phép truy cập đến OER sẽ hỗ trợ các trường đại học trong
việc đề ra và cải thiện chính sách, chiến lược giáo dục ngày càng tốt
hơn. Các trường đại học sẽ nắm bắt được nhiều hơn nhu cầu của người
học, những đóng góp của đội ngũ giảng viên, các nhà nghiên cứu để đưa
ra những kế hoạch cải tiến chất lượng giáo dục tốt hơn trong tương lai.
Bên cạnh đó, truy cập mở đến các kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ quá
trình nghiên cứu được thuận lợi hơn, dễ dàng chia sẻ tri thức, phổ biến
các công trình khoa học đến công chúng. Từ đó sẽ giúp các nhà nghiên
cứu liên kết với nhau trong một mạng lưới rộng lớn, giúp cho họ có định
hướng tốt và nâng cao chất lượng nghiên cứu của mình.
Ngoài ra, truy cập mở đến OER sẽ góp phần hỗ trợ các trường đại
học trong việc xây dựng và hoàn thiện các khung chương trình đào tạo
và kế hoạch đào tạo. Quá trình truy cập mở sẽ giúp họ thu thập được
nhiều hơn các ý kiến đóng góp, đề xuất và qua đó dần có những thay đổi
145PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
phù hợp đối với các kế hoạch đào tạo. Bên cạnh đó, truy cập mở dưới
hình thức các diễn đàn thảo luận cũng sẽ hỗ trợ các trường đại học tiếp
nhận các phản hồi tốt hơn, phục vụ cho công tác dạy và học đạt chất
lượng cao hơn. Một vai trò khác khá quan trọng của truy cập mở đến
OER đó là giúp sinh viên có được nhiều hơn các nguồn tài liệu học tập
và cơ hội để tham gia vào quá trình giáo dục hiệu quả hơn. Bằng việc
sử dụng mạng lưới truy cập mở đến OER, sinh viên không chỉ tiếp cận
tri thức nhanh hơn mà còn có nhiều cơ hội mở rộng hiểu biết, được giải
đáp thắc mắc thông qua học tập tương tác và trao đổi với giáo viên.
Trong điều kiện không đủ kinh phí để mua các nguồn học liệu cần
thiết, việc tìm kiếm các nguồn tài liệu miễn phí còn hạn chế thì việc các
trường đại học Việt Nam liên kết xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục
mở là một giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này.
2. NHỮNG RÀO CẢN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, tình hình sử dụng tài nguyên giáo dục mở
tại các trường đại học Việt Nam cho thấy mức độ tích cực của việc sử dụng
tài nguyên giáo dục mở cho mục đích đào tạo và học tập là khá cao. Giảng
viên, sinh viên đã khai thác tài nguyên giáo dục mở như một trong những
nguồn học liệu quan trọng. Tuy nhiên, một số rào cản trong quá trình triển
khai tài nguyên giáo dục mở, trong đó chủ yếu là những rào cản sau:
Một trong những khó khăn lớn nhất của quá trình xây dựng, phát
triển tài nguyên giáo dục mở đó là vấn đề pháp lý trong quyền sở hữu
trí tuệ. Vấn đề này trên thế giới đã có nhiều giải pháp nhưng đối với
nước ta đang còn là một thách thức lớn và trở thành rào cản phát triển
phong trào sản xuất tài nguyên giáo dục mở. Trong thời gian qua đã có
nhiều hội thảo liên quan đến TNGDM được tổ chức, các chuyên gia đã
đề xuất nhiều giải pháp giải quyết vấn đề này, tuy nhiên về mặt quản
lý hành chính thì đến nay vẫn chưa có một văn bản chính thức nào của
Nhà nước ban hành theo hướng giấy phép bản quyền mở. Bộ Giáo
dục và Đào tạo chưa có chỉ đạo cụ thể nào để các trường đại học phải
chuyển từ đào tạo khép kín sang hệ thống giáo dục mở và xây dựng
tài nguyên giáo dục mở phục vụ cho việc học tập suốt đời của người
146 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
lao động nên “công nghệ đào tạo hàn lâm” vẫn còn diễn ra. Do đó,
khi các trường đại học muốn xây dựng tài nguyên giáo dục mở cũng
bị “vướng” bởi cơ chế, chính sách, hầu hết các trường chưa hình dung
được sự hỗ trợ hay quy định từ phía Nhà nước như thế nào bởi những
chủ trương từ phía Nhà nước về tài nguyên giáo dục mở chưa được thể
chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật.
Vấn đề bản quyền là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến phát triển OER. Bản quyền là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc
các tác giả, các trường đại học sẵn sàng tham gia đóng góp và phát triển
OER hay không. Tình trạng vi phạm bản quyền như hiện nay tại Việt
Nam sẽ là rào cản lớn để mọi người sẵn sàng chia sẻ. Vấn đề nằm ở chỗ
là các tác giả sợ những tác phẩm mà họ tặng có thể bị những cá nhân,
tổ chức sử dụng cho mục đích thương mại, thậm chí không ghi công
tác giả và chiếm đoạt cả tác phẩm. Bên cạnh đó, ở nước ta cũng chưa
có cơ sở pháp lý để giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra. Việc giải quyết
tranh chấp không thể dựa vào các loại giấy phép mà phải dựa vào Luật
Sở hữu trí tuệ với các quy định cụ thể về bản quyền. Tuy nhiên, việc lo
lắng giữ bản quyền của một tác phẩm sẽ đi ngược lại triết lý và mục tiêu
của OER, đó là tri thức phải được cập nhật và chia sẻ càng nhiều càng
tốt, tạo điều kiện để mọi người có thể tiếp cận tri thức và giáo dục một
cách tối đa.
Thứ hai là chưa có sự tham gia hợp tác chặt chẽ của các trường
đại học trong phát triển OER. Trên thực tế, OER muốn phát triển được
phải dựa trên nền tảng của một cộng đồng xây dựng và sử dụng. Các dự
án OER thất bại thường do chưa tạo lập được một cộng đồng cùng đóng
góp cho kho tài nguyên OER. Bản chất của OER là chia sẻ và khai thác
mở, do vậy, cần có sự tham gia tích cực của các trường đại học trong
việc xây dựng các tài liệu học tập mở. Một trường đại học không thể
xây dựng được OER trừ trường hợp họ có nguồn kinh phí rất lớn, nhưng
cái họ tạo ra cũng chỉ phục vụ cho các chương trình đào tạo mà họ cung
cấp. Sự tham gia của các trường đại học sẽ tạo nên một cộng đồng có
chung một mục đích và chia sẻ trách nhiệm với nhau. Mỗi một trường
chỉ cần phát triển một phần và đóng góp vào kho tài nguyên chung, sẽ
tạo nên một hệ sinh thái nội dung đa dạng cho OER. Trong khi đó ở
147PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
Việt Nam hiện nay dường như vẫn chưa có sự tham gia hợp tác giữa các
trường đại học để cùng xây dựng OER.
Thứ ba, khó khăn bởi nguồn nhân lực cho OER. Các giảng viên,
nhà nghiên cứu và các chuyên gia sẽ là những người tạo ra nội dung cho
OER. Do vậy, họ có tiếng nói quyết định đến việc xây dựng nội dung
cho OER. Cho dù các trường đại học có chủ trương phát triển OER,
nhưng không có sự đồng ý của họ trong việc cung cấp các tác phẩm của
mình dưới dạng OER thì cũng không thể triển khai được, trừ trường
hợp các tác phẩm được thuê để viết. Như đã phân tích ở trên, một trong
những yếu tố để các tác giả không sẵn sàng cung cấp các tác phẩm của
mình đó là tình trạng vi phạm bản quyền. Điều này có thể ảnh hưởng
đến quyền lợi kinh tế của tác giả. Đây cũng là yếu tố khiến các trường
đại học gặp khó khăn trong việc số hoá và cung cấp các bài giảng, giáo
trình dưới dạng số cho người học khi mà không có sự đảm bảo về mặt
bản quyền. Việc xây dựng được đội ngũ tình nguyện viên tham gia phát
triển nội dung cho OER cũng là một trong những nhiệm vụ chính của
dự án OER.
Thứ tư, rào cản từ công nghệ và tiêu chuẩn công nghệ. OER ra
đời và phát triển được nhờ công nghệ và phụ thuộc vào công nghệ, đặc
biệt là Internet - công cụ làm nổi bật lợi thế và chuyển tải tốt giá trị của
OER, đó là tri thức cho tất cả mọi người và dễ dàng được chia sẻ và
khai thác. Công nghệ giúp tạo lập, lưu trữ và chia sẻ nội dung của OER.
Tuy nhiên, đây là công nghệ mở (open source) để cộng đồng có thể
cùng đóng góp và phát triển. Một tài liệu OER phải được định dạng mở
để có thể sửa đổi, cập nhật nhằm tạo ra những bản phái sinh, cũng như
có thể sử dụng trên các nền tảng công nghệ khác nhau. Việc tạo ra các
chuẩn công nghệ mở cho OER là điều cần thiết để nguồn học liệu này
có thể tiếp cận đến người dùng với điều kiện và công nghệ khác nhau.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn công nghệ ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng
tốt yêu cầu xây dựng OER trong giáo dục đại học.
Thứ năm, khó khăn bởi vấn đề kinh phí xây dựng, phát triển OER.
Thực tế cho thấy có rất nhiều dự án OER đã được đầu tư, nhưng không
có chính sách phát triển bền vững, do vậy hầu hết đều bị dừng lại khi
148 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
kết thúc dự án. Việc đầu tư cho OER không phải là vô hạn, cần có một
chiến lược phát triển OER có thể tiếp tục được sản sinh. Dĩ nhiên, đối
với mỗi một dự án OER thì kinh phí luôn đóng vai trò quan trọng.
Chính phủ, các trường đại học, các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân
cùng phối hợp đầu tư cho OER. Kinh phí được sử dụng để trả thù lao
cho việc biên soạn OER, hệ thống công nghệ và tiêu chuẩn liên quan
phân phối. Dự án OER cần được đầu tư cơ bản ban đầu để tạo lập ra một
hệ sinh thái, một cộng đồng, từ đó các cá nhân và tổ chức tình nguyện
đóng góp để làm giàu tài nguyên của OER. Khi đó vai trò của tài chính
sẽ giảm đi, thay vào đó các yếu tố khác như chính sách, sự đóng góp
của các bên tham gia và lợi ích mà OER mang lại mới là yếu tố quyết
định đến sự tồn tại và thành công của OER. Rõ ràng trong giai đoạn đầu
để thiết lập, xây dựng OER thì phải có nguồn kinh phí nhất định, tuy
nhiên hiện nay kinh phí lại là vấn đề lớn đối với các trường đại học khi
mà Chính phủ chưa có nhiều chính sách hỗ trợ. Đây là một trong những
yếu tố cản trở quá trình xây dựng, phát triển OER trong giáo dục đại
học ở nước ta hiện nay.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÁO GỠ NHỮNG RÀO CẢN, GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nghị quyết 29 Trung ương khóa 12 chỉ rõ bảy vấn đề trong quan
điểm chỉ đạo về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo hướng
mở, thực học, thực nghiệp, liên thông, chuyển mạnh từ trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, chuyển
từ đào tạo theo số lượng sang chất lượng, thực hiện dân chủ hóa, xã hội
hóa giáo dục đào tạo. Đặc biệt, trong các giải pháp nhằm thực hiện Nghị
quyết 29 thì giải pháp thứ 4 là phải hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học
tập. Do vậy, trước yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục
đại học phải đổi mới toàn diện, triệt để, đồng bộ theo hướng giáo dục
mở để khắc phục các khiếm khuyết hiện nay theo Nghị quyết 29-NQ/
TW. Theo đó, các trường cần đào tạo theo hướng linh hoạt, năng động,
trường phải có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài; tăng cơ
hội tiếp cận tri thức cho tất cả mọi người ở mọi nơi, mọi lúc. Và phát
149PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
triển OER là một trong những biện pháp hỗ trợ để phát triển giáo dục
mở. Để phát triển OER trong giáo dục đại học ở nước ta cần có giải
pháp tháo gỡ các rào cản đã và đang cản trở việc hình thành, xây dựng
và phát triển OER, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, cần xây dựng hệ thống các văn bản pháp lý liên quan đến
xây dựng, phát triển OER. Những văn bản này sẽ tạo hành lang pháp
lý cho OER phát triển, đó sẽ là “mỏ neo” để các trường đại học, các tổ
chức và cá nhân cùng tham gia phát triển OER. Việc xây dựng chính
sách có thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Khoa học và
Công nghệ thực hiện trên cơ sở tập hợp các chuyên gia về OER tại Việt
Nam, cũng như tham khảo kinh nghiệm của các chuyên gia quốc tế.
Nhà nước cần có những quy định pháp lý phù hợp liên quan đến giấy
phép xuất bản để có một văn bản pháp lý chính quy tạo nền tảng và
hành lang pháp lý cho OER phát triển một cách bền vững.
Muốn xây dựng được hệ thống pháp lý hợp pháp và hợp lý về
OER, bản thân Nhà nước phải là chủ thể hiểu biết rõ về OER. Muốn
vậy, các cơ quan quản lý phải tích cực, tăng cường tìm hiểu về OER.
Hơn nữa Nhà nước cũng nên thành lập một Uỷ ban quốc gia về OER.
Uỷ ban này có trách nhiệm thúc đẩy và đưa OER vào đời sống thực tế
thông qua các hoạt động xây dựng chính sách, tìm kiếm nguồn tài trợ,
tổ chức hội thảo và hướng dẫn triển khai OER tại trường đại học và các
tổ chức nghiên cứu.
Hai là, nâng cao nhận thức của các nhà quản lý trong các trường
đại học về phát triển OER. tầm nhìn và quan điểm của nhà quản lý về
OER là rất quan trọng. Trong phạm vi một trường đại học, những chính
sách và sự ủng hộ của lãnh đạo nhà trường đóng vai trò quyết định cho
việc phát triển của OER nói riêng và học liệu nói chung. Nếu lãnh đạo
nhà trường không cho OER là một hướng đi quan trọng, không đầu tư
nguồn lực thì không thể phát triển được OER. Thực tế cho thấy, vai trò
của học liệu trong một trường đại học chưa thực sự được chú trọng khi
mà thư viện không được sử dụng tối đa, giảng viên và sinh viên ít vào
thư viện. Do vậy, cần một cách nhìn đổi mới trong tiếp cận, đổi mới
phương pháp giảng dạy, đặc biệt là có chính sách cụ thể trong việc xem
150 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
học liệu là công cụ không thể thiếu trong giảng dạy và học tập. Chấm
dứt dạy chay và học chay, chấm dứt việc một môn học chỉ vài tài liệu
tham khảo không được cập nhật, chấm dứt xu hướng sinh viên lên mạng
sử dụng các nguồn thông tin không được kiểm chứng để làm bài luận,
khoá luận hay luận văn. Để làm được việc này, tầm nhìn và quyết sách
của nhà lãnh đạo đóng vai trò quyết định. Do đó, bản thân các nhà quản
lý ở các trường đại học phải nhận thức đầy đủ, hết sức trách nhiệm về
nhiệm vụ xây dựng, phát triển OER.
Ba là, xây dựng nguồn nhân lực phục vụ việc hình thành, phát triển
OER trong giáo dục đại học. Trước hết, các cơ sở giáo dục đại học nên
tổ chức các khóa học, tập huấn để các giảng viên, các nhà nghiên cứu
và sinh viên hiểu rõ về OER. Chỉ khi hiểu rõ về loại tài nguyên này
thì họ mới bắt đầu hình thành kỹ năng xây dựng, phát triển OER ngay
từ trường đại học của mình. Các trường đại học nên tăng cường OER
thông qua việc xuất bản tài nguyên giáo dục mở. Việc này giúp làm tăng
khối kiến thức có sẵn về một môn học, đặc biệt thông qua các ấn phẩm,
các chuyên san và các công cụ mở thích hợp khác. Có thể gồm các bài
báo chia sẻ kinh nghiệm về việc sử dụng, sử dụng lại và thay đổi OER.
Ngoài ra, đội ngũ giảng viên nên tận dụng các mạng lưới và cộng đồng
thực hành. Giảng viên có thể hưởng lợi rất lớn từ việc sử dụng các mạng
trực tuyến hiện tại và cộng tác với các cộng đồng thực hành để phát
triển, điều chỉnh và chia sẻ OER, cũng như tham gia vào các cuộc đối
thoại về kinh nghiệm giảng dạy và học tập của mình.
Bốn là, xây dựng mô hình hợp tác phát triển OER phù hợp với điều
kiện Việt Nam. Trên thực tế không có một mô hình nào là hoàn hảo cho
tất cả các quốc gia, với OER cũng vậy. Trong giáo dục đại học các nhà
quản lý, Chính phủ cũng cần xem xét các điều kiện cụ thể về nguồn
nhân lực, tài chính, công nghệ để lựa chọn những điểm phù hợp nhất để
phát triển OER ở nước ta.
Năm là, cần quan tâm đến nguồn lực tài chính cho việc phát triển
OER. Như trên đã phân tích, kinh phí là một trong những rào cản đối
với việc xây dựng, phát triển OER trong giáo dục đại học. Do đó, trong
thời gian tới, các trường đại học cần dành một nguồn kinh phí nhất
151PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
định hàng năm cho việc xây dựng OER, coi đó là một khoản kinh phí
bắt buộc để giúp thúc đẩy sự phát triển nguồn tài nguyên giáo dục của
mình. Về phía Nhà nước cũng phải có những động thái cụ thể trong việc
dành một khoản kinh phí cho việc phát triển OER ở Việt Nam nói chung
và OER trong giáo dục đại học nói riêng.
Sáu là, tăng cường sự hợp tác giữa các trường đại học, giữa các
trường đại học với các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng, phát triển
OER. Sự hợp tác này sẽ góp phần tạo lập một hệ sinh thái OER cho các
trường đại học Việt Nam bao gồm: cộng đồng phát triển và sử dụng,
nguồn học liệu/ nội dung mở, các dịch vụ và sản phẩm, các nhà phân
phối thông tin. Hệ sinh thái này là sự cộng sinh giữa các bên cung cấp
nội dung (các trường đại học, giảng viên), bên cung cấp giải pháp công
nghệ (các công ty kinh doanh công nghệ mở) và người sử dụng.
4. KẾT LUẬN
OER đang tạo ra cơ hội lớn cho giáo dục đại học Việt Nam, mà cụ
thể là các trường đại học trong việc tiếp cận đến nguồn học liệu có chất
lượng với chi phí thấp nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên
cứu. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, chưa được tiếp cận một cách đầy đủ
nên việc xây dựng OER còn nhiều khó khăn. Phát triển OER đã và đang
phải đối mặt với nhiều rào cản liên quan đến vấn đề pháp lý, chính sách,
tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực và sự hợp tác giữa các bên. Trong
thời gian tới, để xây dựng, phát triển OER trong giáo dục đại học cần có
sự nỗ lực, trách nhiệm, tâm huyết của nhiều chủ thể trong xã hội, trong
đó sự nỗ lực từ chính các trường đại học và sự hỗ trợ, dẫn dắt từ phía
Nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng./.
CHÚ GIẢI:
[1] Trích từ trang của Bộ Giáo dục Mỹ, https://tech.ed.gov/open/
[2] Trích nguồn từ
information/access-to-knowledge/open-educational-resources/what-are-
open-educational-resources-oers/
152 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
[3] Trích nguồn từ Khối Thịnh vượng chung về Học tập (COL), 2017, Tài
liệu Hội nghị Thế giới lần thứ 2 về OER, Ljubljana, Slovenia, 18-20/09/2017,
Tài nguyên giáo dục mở: Từ cam kết tới hành động, trang 9, Open Educational
Resources: From commitment to action, page 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 ngày 4 tháng 11 năm 2013
của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo.
2. Phạm Văn Quyết (2017), Những trăn trở cho đổi mới giáo dục đại học
Việt Nam, Báo điện tử tầm nhìn, nguồn https://tamnhin.net.vn/tran-tro-
cho-doi-moi-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-d1227.html
3. VOER: giới thiệu chương trình tài nguyên giáo dục mở Việt Nam, https://
voer.edu.vn/m/gioi-thieu-tom-tat-ve-voer-chuong-trinh-tai-nguyen-
giao-duc-mo-viet-nam/6998d46a.
4. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Triển khai tài nguyên giáo dục mở:
Bản quyền và giải pháp”, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_rao_can_doi_voi_xay_dung_phat_trien_tai_nguyen_giao_du.pdf