1 - Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác dân vận của Đảng.
- Quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng,
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận.
- Vận động, tập hợp các tổ chức đoàn thể và
cán bộ, đảng viên, viên chức toàn trường củng cố,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền
và các tổ chức đoàn thể, tạo nên khối đoàn kết chặt
chẽ trong các bộ phận; xây dựng các tổ chức, đơn vị
trong sạch, vững mạnh, góp phần ổn định chính trị,
phát triển nhà trường bền vững.
- Dự báo, nắm chắc tình hình diễn biến, tư
tưởng, tâm trạng cán bộ, đảng viên, viên chức, lao
động để giải quyết kịp thời các vấn đề mới nảy sinh
có liên quan đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của mỗi người.
- Tiếp tục thực hiện tốt phong trào thi đua
"Dân vận khéo" đi vào nề nếp ở các đơn vị, ở các tổ
chức; tham mưu và phối hợp kiểm tra việc tổ chức
thực hiện các Nghị quyết của Đảng về công tác vận
động quần chúng
34 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những nội dung và giải pháp chủ yếu về công tác dân vận trong trường Cao đẳng Nông Lâm Đông Bắc trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 23
Bảng 1: Công thức tổ thành tầng cây cao của các
trạng thái rừng
Trạng
thái
Cấp
độ
dốc (0)
OTC Công thức tổ thành
IIA
16-25 1
11,9Sg + 10,4Na +
10,3Tr + 9,4Dg +
9,2Kv + 7,4Trc +
5,6Trs + 5,3Sh +
30,5Lk (13 loài)
26-35 4
15,6Cht + 12,2Tng +
11,3Na + 7,2Ng +
6,1Đl + 5,4Bn +
42,2Lk (13 loài)
IIB
16-25 7
10,4Dlt + 9,4Tr +
9,1Gl + 8,6Rv +
7,5Sm + 6,9Lx + 6,8Tt
+ 6,5Trđ + 5,9Ng +
28,9Lk (15 loài)
26-35 10
15,9Tr + 12,6Gl +
8,6Lx + 8,1Dlt +
7,9Cht + 7,6Sb +
39,3Lk (16 loài)
IIIA1
16-25 14
15,2Ng + 12,1Tht +
10,8Tr + 10,5Sq +
7,5Trc + 6,4Cht +
6,3Ngi + 5,0Ctr +
26,2Lk (10 loài)
26-35 17
18,6Ctr + 15,3Sg +
13,9Cht + 7,3Tht
+6,6Bb + 6,5Đl
+5,6Trc 26,2Lk (9
loài)
Trạng thái rừng IIB số loài có mặt là 75. Số
lượng loài trong các OTC biến động từ 22 đến 30
loài, trong đó số loài tham gia vào CTTT từ 6 đến 9
loài. Đây là trạng thái có tổ thành phức tạp nhất.
Trạng thái IIB có thời gian phục hồi dài hơn so với
trạng thái IIA, hoàn cảnh rừng đã bắt đầu ổn định,
nên số loài cây có giá trị kinh tế tham gia vào tổ
thành thực vật có xu hướng tăng hơn.
Trạng thái IIIA1, số loài có mặt là 45 loài, số loài
trong các OTC dao động từ 13 đến 20 loài, số loài
tham gia vào công thức tổ thành biến động từ 6 – 9
loài, và có xu hướng giảm dần từ nơi có độ dốc thấp
đến nơi có độ dốc cao. Trạng thái rừng này đã bị tác
động nhiều lần, cấu trúc bị phá vỡ, nhờ có quá trình
khoanh nuôi, bảo vệ, rừng đang được phục hồi.
Như vậy, ở cả ba trạng thái rừng số lượng loài
cây có mặt ở các OTC cũng như tham gia vào công
thức tổ thành đều có xu hướng giảm dần từ từ nơi có
độ dốc thấp đến nơi có độ dốc cao. Tuy nhiên, số
lượng loài xuất hiện tăng dần từ trạng thái IIIA1 đến
IIA và IIB.
Cấu trúc tầng tán và độ tàn che ở các trạng
thái: Trạng thái rừng IIA, chiều cao biến động từ 5-
15m, bắt đầu có sự phân tầng nhưng chưa rõ rệt ở
một bộ phận rừng (OTC1, OTC2, OTC3). Trạng thái
rừng IIB, sự phân tầng rõ hơn ở trạng thái IIA, Hvn
biến động từ 6-18m. Trạng thái IIIA1, Hvn biến động
từ 10-18m, nhưng số cây có chiều cao 16-18m
không nhiều, chủ yếu còn sót lại từ thế hệ bị khai
thác trước đây và chủ yếu là các loài côm, trâm,
ngát, có phẩm chất xấu. Tóm lại, cấu trúc tầng thứ
ở ba trạng thái rừng về cơ bản vẫn có sự khác biệt.
Cấu trúc mật độ: Trạng thái IIA, mật độ có sự
biến động khá lớn giữa các OTC, từ 470-820 cây/ha,
ở cấp độ dốc 16-250 mật độ khá cao, từ 710-840
cây/ha. Ở cấp độ dốc 26-350, mật độ biến động từ
470-730 cây/ha. Mật độ cây mục đích bình quân là
403 cây/ha. Trạng thái IIB, mật độ biến động từ 640-
820 cây/ha; mật độ ở cấp độ dốc 16-250 biến động từ
760-810 cây/ha; ở cấp độ dốc 26-350, mật độ biến
động từ 640-820 cây/ha; mật độ của các loài mục
đích bình quân là 603 cây/ha. Trạng thái IIIA1, mật
độ biến động từ 310-510 cây/ha và cũng có sự khác
biệt ở hai cấp độ dốc; cấp độ dốc từ 16-250, mật độ
biến động từ 410-510 cây/ha; cấp độ dốc 26-350,
mật độ biến động từ 310-370 cây/ha; mật độ các loài
mục đích bình quân là 212 cây/ha.
Như vậy, kết quả cho thấy trạng thái IIIA1 có mật
độ thấp nhất (cả mật độ chung và mật độ các loài
cây mục đích). Mật độ chung ở trạng thái IIA và IIB
tuy có sự chênh lệch ít nhưng lại có sự chênh lệch
nhiều về mật độ của các loài cây mục đích. Với mật
độ này, thì chưa cẩn điều chỉnh. Tuy nhiên, khi giải
quyết nhiệm vụ điều chỉnh tổ thành thì điều chỉnh
mật độ vẫn gián tiếp được thực hiện.
Phân bố số cây theo cỡ đường kính: Kết quả mô
phỏng được thể hiện trong các biểu đồ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 24
Các đại lượng sinh trưởng của lâm phần: Kết quả thể hiện trong bảng 2
Bảng 2: Bảng tổng hợp kết quả tính toán một số đại lượng sinh trưởng
Các chỉ
tiêu
Trạng thái rừng
IIA IIB IIIA1
15-250 26-350 TB 15-250 26-350 TB 15-250 26-350 TB
(cm) 10,7 9,4 10,1 11,6 11,2 11,4 11,3 11,5 11,4
(m) 10,2 8,8 9,5 10,6 10,2 10,4 9,3 9,4 9,4
(m) 6,1 5,0 5,6 6,3 6,1 6,2 5,5 4,8 5,2
(m) 3,5 3,0 3,3 3,7 3,5 3,6 3,3 3,6 3,5
N(cây/ha) 790 620 705 787 747 767 463 337 400
G/ha (m2) 7,57 4,51 6,04 9,05 7,87 8,46 5,78 4,16 4,97
M/ha (m3) 39,74 20,73 30,24 51,42 41,88 46,65 33,81 22,34 28,08
T (%) 51,03 47,27 49,15 52,57 46,53 49,55 40,33 30,80 35,57
TB (%) 38,33 37,53 37,93 40,23 40,70 40,47 46,90 53,37 50,14
X (%) 10,63 15,20 12,92 7,20 12,77 9,99 12,77 15,83 14,3
Kết quả tổng hợp cho thấy: Trạng thái IIB (ngoại trừ chỉ tiêu D1.3), các chỉ tiêu còn lại (Hvn, Hdc, Dt,
N/ha, G/ha, M/ha, tỉ lệ cây tốt) đều ở mức cao nhất và các chỉ tiêu này đều có xu hướng giảm dần từ trạng thái
IIB đến IIA và IIIA1. Kết quả này một lần nữa lại chứng tỏ trạng thái IIB ở khu vực nghiên cứu có sự phục hồi tốt
hơn hai trạng thái còn lại. Với những tác động tiêu cực thì sẽ không tuân theo một quy luật nào. Hơn nữa, mặc
dù rừng vẫn bị tác động trong một thời gian khoanh nuôi nhưng ở đơn vị quản lí vẫn chưa có tổng kết, đánh giá
chính thức về sự hồi phục của từng trạng thái. Điều này khẳng định một lần nữa, cần phải có biện pháp nuôi
dưỡng để thúc đẩy sinh trưởng chiều cao đường kính ở các trạng thái.
Bảng 3: G, M ở các trạng thái theo phẩm chất
Trạng thái Tiết diện ngang (m
2/ha)
TổngCây T Tỉ lệ % Cây X Tỉ lệ %
IIA 4,77 78,8 1,28 21,2 6,05
IIB 6,97 82,5 1,48 17,5 8,45
IIIA1 3,48 69,9 1,50 30,1 4,98
Trữ lượng (m3/ha)
IIA 24,8 82 5,43 18,0 30,23
IIB 37,48 80,4 9,13 19,6 46,61
IIIA1 19,47 52,6 7,82 28,7 27,29
3.3. Đặc điểm tái sinh quần xã thực vật rừng
Tổ thành tái sinh: Công thức tổ thành được thể hiện trong bảng 4
Bảng 4: Công thức tổ thành cây tái sinh ở các trạng thái rừng
Trạng
thái
Cấp độ
dốc (0) OTC Công thức tổ thành
IIA 16-25 1 3.4Tr + 0.8Na + 0.7(Dg, Trc) + 0.6(Kv, Dđ, Sg) + 2.5Lk (11 loài)
26-35 4 1.5(Cht, Đl) + 1.0(Tng, Na) + 0.8Tht + 0.6(Ng, Sb) + 3.2Lk (13 loài)
IIB 16-25 7 2.9Tr + 1.0Sm + 0.6Dlt + 0.5(Đbx, Gl, Lx, Dc, Dg) + 2.7Lk (16 loài)
26-35 10 2.4Tr + 0.9Dlt + 0.7(Cht, Ngi) + 0.5(Gl, Lx, Sb) + 4.0Lk (14 loài)
IIIA1 16-25 14 2.4Tr + 1.2Cht + 0.9Ctr + 0.6(Ngi, Tht, Ch, Sq, Trc) + 2.6Lk (10 loài)
26-35 17 1.9Cht + 1.4(Tht, Tng) + 1.2Sg + 0.9(Mm, Ctr) + 2.1Lk (8 loài)
Số loài tái sinh đa phần đều có mặt ở tầng cây cao, biến động từ 45 -71 loài ở cả ba trạng thái, một số ODB có
xuất hiện loài mới không có trong tổ thành tầng cây cao. Tổ thành cây tái sinh khá phức tạp. Ở đa số OTC loài
Táu ruối có xu hướng chiếm ưu thế, t iếp đến là các loài Dẻ gai thô, Na hồng, Trám chim, Sến mật, Chẹo tía,
Hầu hết ở các OTC có loài Táu ruối ở tầng cây cao thì tái sinh của loài này rất nhiều, nhất là ở cấp độ dốc thấp.
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 25
Mật độ tái sinh, kết quả thể hiện trong bảng 5
Bảng 5: Mật độ cây tái sinh ở các trạng thái rừng
Trạng thái rừng Cấp độ dốc Mật độ (cây/ha)
IIA
15-250 6840
26-350 4933
IIB
15-250 5653
26-350 4347
IIIA1
15-250 4320
26-350 3787
Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh, ở các
trạng thái rừng tỉ lệ cây tốt và trung bình chiếm tỉ lệ
khá cao (từ 84,9-87,4%), tỉ lệ cây xấu chiếm tỉ lệ
thấp (12,6-15,1%). Điều đó cũng phản ánh điều
kiện đất ở khu vực nghiên cứu vẫn còn tương đối
thuận lợi cho cây tái sinh sinh trưởng và phát triển.
Mật độ tái sinh không phải là thấp song tỉ lệ cây tái
sinh có triển vọng lại chưa cao, biến động từ 30,5-
38,8.
Phân bố cây tái sinh theo mặt phẳng ngang ở
các trạng thái (trên cả 18 OTC) đều ở dạng phân bố
cụm. Như vậy, để đảm bảo cây mục đích phân bố
đều trên toàn diện tích thì cần phải điều chỉnh cây
mục đích từ nơi dầy sang nơi thưa.
Biến động của mật độ cây TSTV theo tổ hợp
các nhân tố có ảnh hưởng chủ yếu, bằng phương
pháp phân tích hệ số các đường ảnh hưởng. Kết quả
phân tích ảnh hưởng của các nhân tố: địa hình, thổ
nhưỡng, tầng cây cao, cây bụi thảm tươi đến mật độ
cây TSTV thể hiện:
Bảng 6 : Hệ số các đường ảnh hưởng đến mật độ
cây TSTV
Các hệ số Giá trị
PXA 0,054
PXB -0,101
PXC -0,498
PXD 0,710
PXE -0,017
PXF -0,108
K1 0,778
K2 0,163
Kết quả này đồng nghĩa với: Ở thời điểm hiện
tại nhân tố độ tàn che và độ dầy tầng đất vẫn là hai
nhân tố có ảnh hưởng nhất tới mật độ cây TSTV.
Song kết quả trên còn cho thấy, ảnh hưởng trực tiếp
lớn hơn ảnh hưởng gián tiếp.
Trong 6 nhân tố lựa chọn để phân tích thì có
thê nói, có nhân tố E (độ dốc) là không thể thay đổi.
Nhân tố D (độ dày tầng đất) cũng không thể trực tiếp
thay đổi nhưng lại có thể gián tiếp thay đổi thông
qua sự phát triển của thảm thực vật trên bề mặt. Các
nhân tố còn lại đều có thể thay đổi được thông qua
các tác động lâm sinh.
Biết được nhân tố có thể thay đổi hay không sẽ
giúp các nhà lâm sinh tìm ra được hướng tác động phù
hợp nhất. Với kết quả đã nêu, ở thời điểm hiện tại cho
thấy: Nhân tố cây bụi thảm tươi mặc dù ở các trạng
thái là sinh trưởng và phát triển khá tốt nhưng lại có
ảnh hưởng âm đến mật độ cây tái sinh có triển vọng.
3.4. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh
tác động vào rừng
Đề tài đã đề xuất giải pháp nuôi dưỡng cho các
lô rừng. Về kỹ thuật cụ thể :
- Lựa chọn cây bài chừa, bài chặt. Cây chừa là cây
mục đích, cây bạn có phẩm chất từ trung bình trở
lên (Lim xanh, Táu ruối, Gụ lau,...). Cây chặt là
những cây mục đích, cây có ích, cây bạn có phẩm
chất xấu (cong queo, cụt ngọn, sâu bệnh,), là
những cây phi mục đích (mọi phẩm chất): Đỏm
lông, Găng, Thành ngạnh, Thẩu tấu,.
Tuy nhiên, cần linh động cây chừa cũng có thể
là cây phi mục đích trong trường hợp ở nơi có ĐTC
thấp, cần giữ lại để tạo ĐTC phù hợp cho tái sinh.
Song, trong chu kỳ chặt kế tiếp phải xem xét loại
bỏ.
- Điều chỉnh tỉ lệ cây mục đích và cây bạn, cây có
ích theo tỉ lệ tối thiểu 2:1 (về số loài). Với tỉ lệ này,
các lô tương ứng với các trạng thái cần điều chỉnh
như sau: trạng thái IIA: lô 4, 5, 6; trạng thái IIIA1:
lô 14, 15, 16, 17
- Tiến hành chặt nuôi dưỡng với cường độ, số lần
chặt và kỳ giãn cách như sau:
Bảng 7: Các chỉ tiêu kỹ thuật chặt nuôi dưỡng
theo nhóm tác động
Các chỉ tiêu kỹ thuật
Nhóm tác động
I (%) K T (năm)
10 3 16 1, 3, 7, 8, 12, 13
10 4 16 2, 5, 10, 11
10 5 12 9
10 5 16 17, 18
10 6 16 6, 15, 16
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 26
- Phát bỏ dây leo có hại: Phát bỏ toàn bộ dây leo có
hại leo bám, quấn chặt cây gỗ tái sinh, cây có ích,
cây bạn và cây mục đích ở tầng cây cao. Chỉ phát
cây bụi, thảm tươi cục bộ trong trường hợp có nguy
cơ chèn ép cây tái sinh hoặc trong trường hợp cây
bụi, thảm tươi dày đặc cản trở sự gieo giống của
cây mục đích nhưng ở nơi đất không quá dốc (≤
250).
Chú ý điều chỉnh sự phân bố của cây tái sinh
mục đích từ nơi dầy sang nơi thưa, điều chỉnh tổ
thành cây tái sinh. Song phải lưu ý đảm bảo mật độ
cây TSTV không thấp hơn 1000 cây/ha.
Với mục tiêu như vậy, nội dung các lần chặt
được cụ thể hóa như sau:
Lần 1: Chặt vệ sinh nhằm mục đích cải thiện
chất lượng rừng
Lần 2: Chặt ánh sáng nhằm mục đích thúc đẩy
tái sinh và điều chỉnh tổ thành là chính.
Lần 3: Chặt sinh trưởng nhằm thúc đẩy sinh
trưởng đường kính.
Đối với lô rừng có thời gian nuôi dưỡng dài, có
K > 3 thì tùy theo tình hình rừng mà quyết định nội
dung các lần chặt tiếp theo cho phù hợp.
III . KẾT LUẬN
Đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng
Đặc điểm địa hình ở khu vực nghiên cứu là có
độ dốc khá lớn, gây bất lợi cho phục hồi rừng. Đối
với nhân tố thổ nhưỡng các chỉ tiêu có lợi cho sinh
trưởng của rừng đều ở mức thấp đến trung bình,
một số nhân tố bất lợi cho sinh trưởng như pH, tỉ lệ
đá lẫn tương đối cao.
Đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng
Tổ thành rừng còn khá phong phú, có từ 45 - 75
loài. Số loài cây mục đích là 56 loài chiếm 64%, số
loài có ích, bạn là 18 loài chiếm 23%, số loài phi
mục đích là 13 loài chiếm tỉ lệ 13%.
Cấu trúc hình thái rừng có những đặc trưng khá
rõ nét. Tầng tán rừng không bị phá vỡ, độ tàn che
khá cao (TC: 0,34-0,54), cây bụi thảm tươi phát
triển khá tốt. Phân bố số cây theo cỡ kính tương đối
liên tục. Mật độ chung không cao, biến động từ
400-767 cây/ha, so với mật độ chung thì mật độ các
loài cây mục đích có phẩm chất tốt khá cao biến
động từ 212-585 cây/ha. Trạng thái IIB có tính ổn
định hơn so với hai trạng thái còn lại với : tầng tán
hình thành rõ hơn, chỉ số đa dạng sinh học, độ tàn
che, mật độ chung và mật độ các loài cây mục đích
có phẩm chất tốt đều cao hơn hai trạng thái còn lại.
Trữ lượng bình quân chung ở các trạng thái biến
động từ 27,3-46,6 m3/ha. Trong đó, trữ lượng của
bộ phận cây tốt biến động từ 19,5-37,5m3/ha, trữ
lượng của bộ phận cây xấu biến động từ 5,43-
9,13m3/ha. Vì vậy, cần thiết phải chặt nuôi dưỡng
để tăng trữ lượng của bộ phận cây tốt hơn nữa.
Đặc điểm tái sinh quần xã thực vật rừng
Tổ thành tái sinh có sự kế thừa cao về loài ở tầng
cây cao. Tổng số loài có mặt ở các trạng thái biến
động từ 45-71 loài. Có 7-10 loài tham gia vào công
thức tổ thành, phổ biến như: Táu ruối, Dẻ gai thô,
Sồi ghè, Sến mật, Gụ lau, Tuy nhiên, trong tổ
thành các trạng thái vẫn có tái sinh của loài kém giá
trị chiếm ưu thế. Vì vậy, cần xem xét điều chỉnh tổ
thành cây tái sinh theo hướng chỉ để lại nhóm loài
mục đích, có ích.
Mật độ cây tái sinh ở các trạng thái rừng ở mức
trung bình, biến động từ 4053 cây/ha đến 5707
cây/ha. Tuy nhiên, cây TSTV chiếm tỷ lệ không
cao, biến động từ 30,5-38.8%. Tỉ lệ cây tốt ở cả
ba trạng thái biến động từ 43,72-55,68%, giảm dần
từ trạng thái IIA đến IIIA1, giảm dần theo cấp độ
dốc. Tỉ lệ cây có nguồn gốc hạt khá cao ở cả ba
trạng thái (70,03-76,65%). Vì vậy, cần phải có
biện pháp thúc đẩy tái sinh sinh trưởng và điều
chỉnh phân bố tái sinh theo hướng phân bố đều.
Chiều cao cây tái sinh tập trung chủ yếu ở cấp
chiều cao < 0.5m, sau đó giảm mạnh ở cấp chiều
cao 0,5m – 1m và cấp chiều cao 1m – 2m, nhưng
lại có xu hướng tăng lên ở cấp chiều cao > 2m. Vì
thế, cần thúc đẩy tỉ lệ cây tái sinh ở các cấp dưới
2m sớm chuyển cấp để tăng tỉ lệ cây TSTV.
Cấp độ dốc khác nhau cho mật độ cây tái sinh
khác nhau, tỉ lệ cây tốt ở các trạng thái; cây bụi,
thảm tươi sinh trưởng tốt khá tốt. Song, kết quả
phân tích ảnh hưởng tổng hợp của các nhân tố chủ
yếu lại cho thấy nhân tố nổi lên hàng đầu ảnh
hưởng ở thời điểm hiện tại đến NTSTV là độ dầy tầng
đất và thứ hai là độ tàn che. Đây là hướng để xem
xét để thúc đẩy cây TSTV.
Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác
động vào rừng
Bằng các tiếp cận tổng thể, dựa trên mô hình
rừng mong muốn (Mn và an), quan điểm sản lượng
và số liệu thực nghiệm, đề tài đã xác định được hệ
số β của từng phương án kỹ thuật tiềm năng trong
nuôi dưỡng rừng. Hệ số β được dùng để so sánh
hiệu quả của các phương án kỹ thuật khác nhau áp
dụng cho cùng một lô rừng nào đó, là tiêu chuẩn để
lựa chọn phương án kỹ thuật tối ưu, phương án kỹ
thuật phù hợp và để loại bỏ phương án kỹ thuật
không phù hợp.
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 27
Phương án kỹ thuật CND đã được xác định cho
từng lô rừng. Đề tài cũng đã đề xuất một số biến
pháp kỹ thuật tổng hợp trong nuôi dưỡng rừng,
gồm: (i)- chọn loài cây nuôi dưỡng và loài cây chặt
bỏ; (ii)- xác định cường độ chặt, số lần chặt và chu
kỳ chặt cho từng nhóm lô; (iii)- xúc tiến tái sinh tự
nhiên trong quá trình chặt nuôi dưỡng rừng./.
.
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 28
THAO TÁC HOÁ KHÁI NIỆM VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ BÁO
TRONG ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VÀ GIÁO DỤC HỌC
Nguyễn Huy Cường – Phòng Khảo thí và ĐBCL
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống các lý thuyết của một khoa
học bất kỳ thì các khái niệm là thành phần không
thể thiếu được. Trong nghiên cứu xã hội học và
giáo dục học các khái niệm được coi là luận cứ lý
thuyết quan trọng của một cuộc nghiên cứu.
Trong quá trình xây dựng mục tiêu nghiên
cứu, các giả thuyết nghiên cứu và xác định mô hình
lý thuyết với việc xác định triển khai và kết hợp các
biến số, chúng ta đã đưa ra hệ thống các khái niệm
của đề tài. Những khái niệm này có thể là những
khái niệm đơn giản, ít trừu tượng, cũng có thể là
những khái niệm phức tạp và trừu tượng. Nhiệm vụ
của nhà nghiên cứu xã hội học và giáo dục học là
cần phải làm rõ khái niệm đó, thu thập thông tin,
xác định các thước đo để lượng hoá chúng. Chính
vì vậy việc xác định và thao tác hoá các khái niệm
có một vị trí quan trọng trong việc xây dựng một
chương trình nghiên cứu.
KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM
1. Khái niệm
Khái niệm là phương tiện trao đổi thông tin
để nhận ra đúng bản chất của sự vật và hiện tượng
và là công cụ cần thiết để làm việc của những nhà
nghiên cứu và những người tham gia vào nghiên
cứu. Xác định rõ khái niệm có ý nghĩa rất lớn đối
với định hướng nghiên cứu và độ chuẩn xác, tin cậy
của kết quả nghiên cứu (Phạm Văn Quyết, Nguyễn
Quý Thanh, 2001).
Khái niệm là những từ để mô tả, để giải thích
những tình huống, những trường hợp riêng biệt nào
đó. Đó là những từ trừu tượng làm cho kinh nghiệm
sống của chúng ta trở nên có ý nghĩa. Như vậy có
thể nói khái niệm là sự thể hiện những ý tưởng có
tính khái quát về bản chất của các tình huống, các
hành động riêng biệt tương tự nhau xảy ra trong
cuộc sống hàng ngày.
Trong lôgic học, khái niệm là sự phản ánh
những đặc tính chung, bản chất của một lớp các đối
tượng. Trong lớp đó, các đối tượng là những cá thể
có những đặc tính chung, tồn tại một cách khách
quan (Bynkov, 1975) (trích theo Phạm Văn Quyết
và Nguyễn Quý Thanh 2001). Về cấu trúc, khái
niệm gồm hai bộ phận: nội hàm và ngoại diên.
Trong đó, nội hàm của khái niệm là những hiểu biết
về toàn thể thuộc tính bản chất được phản ánh trong
khái niệm và ngoại diên của khái niệm là toàn thể
những cá thể mà chứa các thuộc tính bản chất được
phản ánh trong khái niệm. Giữa nội hàm và ngoại
diên của khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau theo chiều tỷ lệ nghịch (Vũ Cao Đàm, 1999).
2. Định nghĩa khái niệm
Định nghĩa khái niệm là công việc cần thiết
và không thể thiếu của những nhà nghiên cứu. Theo
Vũ Cao Đàm (1999), về mặt logic, định nghĩa một
sự vật hoặc hiện tượng là sự tách ngoại diên của sự
vật cần định nghĩa ra khỏi sự vật gần nó và chỉ rõ
nội hàm. Định nghĩa ở đây bao gồm hai nội dung:
“loại biệt ngoại diên và chỉ rõ nội hàm”. Điều đó có
nghĩa là, cần chỉ rõ hiện tượng cần được định nghĩa
và nêu được thuộc tính bản chất của nó, để theo đó
phân biệt những hiện tượng khác.
Theo T. Baker (1995) (trích theo Phạm Văn
Quyết và Nguyễn Quý Thanh, 2001) định nghĩa
khái niệm có thể chia ra làm 3 loại định nghĩa theo
ý nghĩa và cách sử dụng của nó là định nghĩa thực,
định nghĩa danh nghĩa và định nghĩa thao tác.
Trong đó, định nghĩa thực phải thể hiện được cái
bản chất, cái cốt lõi của hiện tượng đang được đề
cập đến. Với định nghĩa danh nghĩa phải chỉ rõ ý
nghĩa và thành phần của thuật ngữ. Định nghĩa thao
tác về khái niệm là chỉ ra các chiều cạnh của khái
niệm. Từ các chiều cạnh này sẽ xác định các chỉ
báo, căn cứ vào đó để thu thập thông tin thực
nghiệm và cuối cùng là để nghiên cứu, đo lường
khái niệm. Cơ sở cho xác định thao tác các khái
niệm là định nghĩa danh nghĩa của khái niệm.
Trong nghiên cứu xã hội học và giáo dục học, việc
đưa ra định nghĩa thao tác về khái niệm chính là
quá trình thao tác hoá các khái niệm.
THAO TÁC HOÁ KHÁI NIỆM VÀ XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CHỈ BÁO TRONG ĐIỀU TRA
1. Cơ sở lý thuyết cho việc thao tác hoá các khái
niệm
Trong nghiên cứu xã hội học và giáo dục
học, thao tác hóa khái niệm gắn liền với quá trình
phân chia và cụ thể hoá khái niệm. Nghĩa là quá
trình biến các khái niệm ở mức độ trừu tượng, phức
tạp thành các khái niệm cụ thể hơn, hẹp hơn, đơn
giản hơn để qua đó chúng ta có thể quan sát, tiến
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST COLLEGE OF AGRICULTURE & FORESTRY - SỐ 5 - 2012 29
hành ghi chép thực nghiệm. Quá trình này được thể
hiện thông qua hệ thống các chỉ báo của khái niệm.
Thực tế, các khái niệm phức tạp và trừu
tượng của đề tài nghiên cứu thường dẫn đến những
cách hiểu khác nhau, vì thế mà không thể tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm hay đo lường được. Khó
khăn này chỉ có thể khắc phục được thông qua việc
thao tác hoá các khái niệm, nghĩa là những khái
niệm trừu tượng, phức tạp đó cần phải được chuyển
thành những khái niệm cụ thể hơn, hẹp hơn mà có
thể coi là các chỉ báo của khái niệm trừu tượng hơn
và cứ như vậy để đạt mức độ cuối cùng là các chỉ
báo thực nghiệm, tức là gắn với thực tế xã hội, cho
phép tiến hành quan sát, ghi chép thực nghiệm về
chúng. Những khái niệm cụ thể, đơn giản như kết
quả của quá trình thao tác sẽ cho phép mọi người
hiểu về chúng theo cùng một nghĩa và việc đo
lường mới đạt được mức độ chính xác cần thiết.
Trong nghiên cứu xã hội học, việc thao tác
hoá khái niệm cũng được xuất phát từ chính quá
trình nhận thức của xã hội học. Thực tế, đặc tính và
khối lượng của các thông tin thực nghiệm thu được
trong các nghiên cứu xã hội học không tự phát mà
được quyết định từ chính đề tài và mục tiêu nghiên
cứu. Thông tin thu được nhằm kiểm nghiệm những
giả thuyết đã nêu. Như v ậy, tồn tại một mối quan hệ
cần thiết giữa những khái niệm được nêu lên trong
đề tài và mục tiêu nghiên cứu với những thông tin
thực nghiệm cá biệt sẽ được thu thập. Chính trên cơ
sở của thông tin này đã thực hiện việc cụ thể hoá,
giải thích thêm, phát triển và chính xác hoá khái
niệm và quá trình nhận thức được trình bày trong
mục tiêu nghiên cứu cũng đã đư ợc giải quyết.
Trong nghiên cứu xã hội học thường đạt ra
mục tiêu thu thập thông tin cho việc giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn. Để đạt được mục tiêu
này thì việc giải thích thêm hay làm giàu thêm
những khái niệm xã hội học nào đó là điều không
thể tránh khỏi. Thiết lập mối quan hệ một ý nghĩa
giữa thông tin sẽ thu nhận được và những khái niệm
được trình bày trong đề tài và nằm ở mức độ nhận
thức nào đó của nhận thức lý thuyết xã hội học là
một sự cần thiết. Mỗi một mức độ nhận thức của xã
hội học cũng có hệ thống khái niệm, phạm trù riêng
phù hợp với tính trìu tượng của mức độ đó. Trên cơ
sở các hệ thống khái niệm ở các mức độ nhận thức
nằm giữa mức độ có chứa các khái niệm của đề tài
với mức độ nhận thức thực nghiệm chúng ta xác
định được chính xác các chỉ báo trung gian và các
chỉ báo thực nghiệm.
Với mỗi một nghiên cứu xã hội học thì mức
độ cao nhất của nhận thức là những khái niệm cơ sở
và mức độ thấp nhất là các thông tin cá biệt. Tất
nhiên, giữa chúng sẽ khó tránh khỏi một số nhất
định các mức độ trung gian trong nhận thức xã hội.
Các chỉ báo trung gian và các chỉ báo thực nghiệm
đảm bảo một cách thuận tiện nhất cho sự chuyển
động của quá trình nhận thức từ các khái niệm cơ
sở đến thông tin thực nghiệm và ngược lại.
Mặt khác, trong thao tác hoá các khái niệm
việc đưa ra định nghĩa danh nghĩa các khái niệm
cũng là một công việc hết sức cần thiết. Bởi vì chỉ
khi nào trình bày được chính xác và đầy đủ các
chiều cạnh của khái niệm chúng ta mới thể hiện
được đầy đủ nội dung của khái niệm và như vậy
mới tránh được những “vết trắng” trong các tư liệu
thu được liên quan đến khái niệm cần đo lường.
Như vậy, với quá trình nhận thức của xã hội
học thông qua nhiều mức độ khác nhau, cũng như
với cách xác định thao tác các khái niệm, chúng ta
có đầy đủ cơ sở lý luận để xây dựng hệ thống các
chỉ báo của khái niệm cơ sở, bao gồm các chỉ báo
trung gian và các chỉ báo thực nghiệm. Hay đó
chính là quá trình biến các khái niệm trìu tượng,
phức tạp thành các khái niệm cụ thể, đơn giản rất
cần trong quá trình xây dựng chương trình nghiên
cứu. Đó chính là quá trình thao tác hoá các khái
niệm trong nghiên cứu xã hội học.
2. Xây dựng hệ thống chỉ báo trong điều tra
Thao tác hoá khái niệm chính là việc xây
dựng hệ thống các chỉ báo của khái niệm cần thao
tác.
Chỉ báo là những đặc tính của đối tượng
nghiên cứu cho phép đạt được sự quan sát, sự đo
lường. Trong mối quan hệ với các biến số thì chỉ
báo là thước đo để đo lường các biến số. Việc chọn
các chỉ báo thích hợp cho việc đo lường các khái
niệm là điều quan trọng và có ý nghĩa rất lớn đối
với việc thực hiện đề tài nghiên cứu.
Trong hệ thống các chỉ báo của khái niệm cơ
sở trong quá trình thao tác hoá khái niệm của một
đề tài nghiên cứu thì chỉ báo trung gian là những
khái niệm ở các mức độ khác nhau. Chúng tạo nên
một tổng thể có nhiệm vụ cụ thể hoá và giải nghĩa
một cách đầy đủ, theo một hướng cho khái niệm cơ
sở. Số lượng, mức độ của các chỉ báo trung gian
phụ thuộc vào tính trừu tượng của khái niệm cơ sở.
Các chỉ báo trung gian ở mức độ đầu tiên cần phải
cụ thể hoá và làm rõ nghĩa, đầy đủ nghĩa cho khái
niệm cơ sở, tức là phải chỉ ra được tất cả các chiều
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC Khoa học – Công nghệ & Đào tạo
NORTHEAST CO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_noi_dung_va_giai_phap_chu_yeu_ve_cong_tac_dan_van_tron.pdf