Những điểm nghẽn cần tháo gỡ khi thực hiện tự chủ ở các trường đại học công lập hiện nay

Tự chủ đại học đang là vấn đề quan trọng được các trường đại học,

Nhà nước và người dân quan tâm. Thời gian qua, một số trường đại học công lập đã

triển khai thí điểm tự chủ và đạt được những kết quả ban đầu. Sau khi quyền tự chủ

chính thức được “luật hóa” tại Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018, có hiệu lực từ

tháng 7 năm 2019, nhiều trường đại học công lập bắt đầu tiến hành tự chủ theo lộ

trình. Nhiều vấn đề nảy sinh như chất lượng đào tạo, giữ chân chuyên gia giỏi, thủ tục

mua sắm đầu tư cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt động của Hội đồng trường trong bối

cảnh tự chủ khiến các trường đại học lúng túng và gặp không ít khó khăn. Bài viết tập

trung luận giải những vướng mắc, những “điểm nghẽn” đã và đang cản trở quá trình

thực hiện tự chủ ở các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay mà trọng tâm là

những vướng mắc về mặt pháp lý, năng lực, tổ chức của các trường đại học và nhu cầu

của xã hội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần tháo gỡ những “điểm

nghẽn”, tạo điều kiện hợp pháp và hợp lý để các trường đại học công lập thực hiện tự

chủ trong bối cảnh mới.

pdf10 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Những điểm nghẽn cần tháo gỡ khi thực hiện tự chủ ở các trường đại học công lập hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t trong Nghị định số 138/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục để phù hợp với quy định mới của tự chủ đại học. 388 Hai là, nhanh chóng quy định rõ hơn nữa cơ cấu tổ chức của trường đại học theo hướng quy định rõ thẩm quyền, mối quan hệ giữa ba thực thể trong nội bộ trường đại học gồm đảng ủy, hội đồng trường và hiệu trưởng; mối quan hệ giữa trường đại học với cơ quan chủ quản. Ở khía cạnh mối quan hệ giữa hội đồng trường và đảng ủy. Như trên đã phân tích, hiện nay vấn đề thẩm quyền và mối quan hệ giữa ba chủ thể này chưa thực sự rõ ràng, là một trong những điểm nghẽn lớn khi tiến hành tự chủ. Do đó, Nhà nước cần ban hành quy định pháp luật nhằm cụ thể hóa rõ ràng hơn vấn đề này để các đơn vị có cơ sở thực hiện. Trong mối quan hệ giữa đảng ủy và hội đồng trường có vấn đề liên quan đến tư duy về vai trò, chức năng và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các trường đại học cần được nhận thức cho đúng và phải được đổi mới một cách căn bản. Về nguyên tắc làm việc, khác với cấp ủy hành chính địa phương, đảng ủy ở trường đại học không quyết định nhiệm vụ chính trị mà đó là việc của hội đồng trường. Đảng ủy không làm chức năng của cơ quan quyền lực mà đó là nhiệm vụ của hội đồng trường, đây mới chính là cơ quan quyền lực của trường đại học. Cũng cần xác định rõ, đảng ủy không phải là cấp trên hay cấp dưới của hội đồng trường. Hai thiết chế này song song tồn tại nếu ở trong trường có đảng viên đủ về số lượng. Mỗi thiết chế nên làm chức năng của mình, không trùng lấn lên nhau. Ở khía cạnh mối quan hệ giữa trường đại học với cơ quan chủ quản, pháp luật nên được điều chỉnh, quy định theo hướng tiến tới xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản theo tinh thần Nghị quyết 19-NQ/TW, Nghị quyết 29-NQ/TW của Đảng, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP và Nghị quyết số 89/NQ-CP của Chính phủ. Để làm được điều này, Chính phủ cần tổng hợp ý kiến của các chủ thể liên quan, trước hết là bản thân các trường đại học, tiếp theo là các cơ quan chủ quản. Sau đó, phân tích thực tiễn về sự cần thiết phải thay đổi phương thức quản lý nhà nước đối với các trường đại học theo hướng giảm bớt sự chỉ đạo trực tiếp theo mệnh lệnh hành chính từ phía các cơ quan chủ quản. Thêm vào đó, Chính phủ cần quyết liệt đưa ra cơ chế cụ thể nhằm đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với việc quản lý đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Ba là, cần tiếp tục nghiên cứu để các trường đại học công lập đẩy mạnh tự chủ về tài chính, thu và quản lý học phí. Nên để các trường đại học tự quyết định khai thác, tìm kiếm nguồn tài chính, cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài sản tương lai, cân đối thu và chi nhằm đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi. Khi nhà trường đã có cơ chế tài chính chủ động, thông thoáng sẽ có chính sách chi trả thu nhập tốt hơn, khuyến khích đội ngũ làm việc hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo cũng như thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nhà trường. Do đó, để các trường đại học có thể tự chủ hợp tác nhằm tối đa hóa giá trị của nhà trường thì hệ thống pháp luật phải sửa đổi, hoàn thiện những quy định liên quan đến tự chủ tài chính. Việc xác định mức thu học phí phải đảm bảo hài hòa giữa các chủ thể, vừa tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo nhưng cũng phải đảm bảo quyền lợi chính đáng của người học. Trong quá trình thực hiện tự chủ, các trường đại học được tự xác định học phí nếu đáp ứng được các điều kiện tự chủ theo quy định mới của Luật. Mức học phí này phải đảm bảo phù hợp với lộ trình tính giá dịch vụ giáo dục đào tạo tương xứng với chất lượng đào tạo được kiểm định. Các trường đại học phải có trách nhiệm công khai, minh bạch, cam kết chất lượng, đồng thời có trách nhiệm giải trình với các cơ quan quản lý nhà nước, với người học, với xã hội về mức học phí đưa ra. Ngoài ra, khi 389 xây dựng mức học phí, các trường đại học cũng nên quan tâm, tính đến các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ sinh viên khó khăn, các đối tượng sinh viên vùng sâu vùng xa, thành lập quỹ hỗ trợ sinh viên nghèo. Việc công khai mức thu học phí và lộ trình tăng học phí từng năm và cả khóa học thực hiện theo quy định tại Thông tư 36/2017/TT-BGDĐT. Các trường đại học công lập cần lưu ý rằng, tự chủ không đồng nghĩa với việc muốn thu học phí bao nhiêu thì mua. Tự chủ cần được nhìn nhận đúng dưới trách nhiệm xã hội, trách nhiệm giải trình báo cáo, minh bạch thông tin về mức thu học phí, lộ trình tăng học phí; cam kết chất lượng của nhà trường; nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bảo đảm quyền lợi cho người học và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Do đó, Nhà nước cũng có cơ chế yêu cầu các trường có trách nhiệm giải trình và khuyến khích xã hội tham gia giám sát mức thu học phí để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Bên cạnh đó, để các trường được thực sự tự chủ, trước hết cần chuyển nhanh từ hỗ trợ ngân sách theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đầu tư theo mục tiêu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Nhà nước tạo cơ chế thuận lợi và quy định trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ hợp tác giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, trong việc thương mại hóa sản phẩm khoa học... để tạo điều kiện tăng nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ, phục vụ cộng đồng. Bốn là, bản thân các trường đại học công lập phải chủ động nâng cao năng lực. Sự phản ứng của thị trường rất nhanh nhạy, cơ chế thị trường và cơ chế tự chủ dần sẽ rõ nét hơn trong hệ thống giáo dục của Việt Nam và sẽ giúp thanh lọc được những cơ sở đào tạo thiếu chất lượng hoặc đào tạo những ngành nghề không phù hợp. Lúc đó, hàng loạt hệ lụy khác như vấn đề việc làm của viên chức, đảm bảo tính cân đối trong đào tạo các ngành nghề theo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Để nâng cao năng lực các trường đại học công lập, trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo đại học là vấn đề quan trọng đã được bàn đến nhiều năm qua, song vẫn chưa cải thiện được là bao. Trong khi đó đây là tiêu chí hàng đầu để đảm bảo các trường có thể tự chủ. Do đó, nâng cao chất lượng là cần thiết và trong thực tế là cấp bách. Thời gian tới, các trường công lập cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ các yếu tố về đội ngũ giảng viên, giáo trình tài liệu, cơ sở vật chất, xác định đúng nhu cầu đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tăng cường thực hiện đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục đại học và xếp hạng các trường đại học, cao đẳng, ban hành quy định về cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia theo quy định pháp luật. Tạo cơ sở, động lực để các trường phấn đấu, điều chỉnh hoạt động để hướng tới chất lượng. Năm là, cần chủ động thực hiện nhiều biện pháp thay đổi tư duy của đội ngũ viên chức trong các trường đại học công lập, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo. Đối với mỗi một cuộc cải cách, con người là yếu tố then chốt, quyết định sự thành bại. Ở trên đã phân tích cụ thể những rào cản về yếu tố con người đã quen với tư duy cũ, cách làm cũ mà chủ yếu là thụ động phụ thuộc vào chỉ đạo của các cơ quan chủ quản. Do đó, để thay đổi cách làm, trước hết phải thay đổi nhận thức, tư duy của đội ngũ này. Để làm được điều này, cần quan tâm đến mấy vấn đề sau: Đối với cấp lãnh đạo: Lãnh đạo các trường phải đủ độ chín về tư duy, có văn hóa và nhân cách tốt, đặt lợi ích của đơn vị, của con người, của sứ mệnh giáo dục lên trên lợi ích cá nhân. Để có lãnh đạo như vậy thì tất cả các trường đại học công lập phải 390 cẩn trọng, công tâm mà lựa chọn đúng người đảm đương trọng trách cao cả nhưng cũng đầy trách nhiệm này. Tất cả các chức danh như chủ tịch hội đồng trường, ban giám hiệu phải là những người thực tài, thực tâm vì sự nghiệp giáo dục thì quá trình tự chủ mới có cơ hội thành công. Đối với cấp thừa hành: Những người thực thi hoạt động nghề nghiệp chuyên môn cần có đủ trách nhiệm, phẩm chất, có động cơ trong sáng vì sự nghiệp trồng người cao cả, không lợi dụng việc phân cấp để tìm kiếm lợi ích cá nhân. Để có đội ngũ cấp dưới như vậy, mỗi trường phải nâng cao chất lượng tuyển dụng viên chức, đảm bảo tuyển được những người có đủ năng lực, phẩm chất thực thi tốt nhiệm vụ ở vị trí việc làm dự tuyển; tăng cường đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị các kỹ năng mới đáp ứng được yêu cầu mới của đào tạo đại học; đồng thời các trường cũng phải hết sức quan tâm đến vấn đề lương thưởng của viên chức bởi đây chính là một trong những động lực cốt lõi thúc đẩy năng suất, hiệu quả làm việc. Trong quá trình thực hiện tự chủ, các trường tùy thuộc điều kiện cụ thể của đơn vị mình, xây dựng các phương án cụ thể, từng bước thực hiện. Nếu thực sự vướng mắc thì nhờ đến sự hỗ trợ của Nhà nước bởi tự chủ không phải để các trường “tự bơi” mà cần sự quan tâm nhất định từ phía Nhà nước, nhất là trong giai đoạn đầu thực hiện tự chủ. Đối với xã hội: Cộng đồng xã hội phải có đủ nhận thức để tác động bằng dư luận, phê phán những hành vi sai trái, lạm dụng tự chủ đại học để tư lợi cá nhân hoặc lợi ích nhóm. Xã hội cũng cần lên tiếng trước tình trạng không chịu phân cấp, giao quyền, cản trở bên dưới tự chủ. Để làm được điều này, trước mắt Nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để người dân hiểu về chủ trương tự chủ đại học. Nhà nước cũng cần khuyến khích các cơ quan truyền thông báo chí tham gia vào công tác tuyên truyền chủ trương tự chủ. Tóm lại, tự chủ đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ sẽ là cơ hội biến các trường đại học công lập trở thành các trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu tri thức, chuyển giao công nghệ hiện đại. Tự chủ cũng chính là chìa khóa giúp đổi mới quản trị đại học, đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước đối với giáo dục đại học. Nó là xu thế tất yếu nhưng dường như các trường vẫn đang đứng giữa ngã ba đường, loay hoay tìm cách triển khai. Trong giai đoạn này, Nhà nước cần tiếp tục giúp các trường tháo gỡ khó khăn, tháo gỡ những điểm nghẽn đang khiến tự chủ đại học khó chạy tới đích. Năm điểm nghẽn lớn về pháp luật, về cơ cấu tổ chức trường, vấn đề học phí, năng lực và sự lúng túng trong giai đoạn đầu là rào cản lớn đối với tự chủ đại học. Trước mắt, cần tìm cách tháo gỡ những vướng mắc này đặc biệt là hành lang pháp lý nhằm giúp các trường gỡ rối và xác định đúng hướng đi trong giai đoạn đầu tự chủ. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2017), Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. 2. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 3. Nguyễn Trường Giang (2016), Triển khai Nghị định 16/2015/NĐ-CP: Vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục, Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 5/2016. 4. Quốc hội, Luật Giáo dục đại học năm 2012, sửa đổi bổ sung năm 2018.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_diem_nghen_can_thao_go_khi_thuc_hien_tu_chu_o_cac_truo.pdf
Tài liệu liên quan