Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới, cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu cực.
24 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
A – Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới, cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu cực...thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bưc thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.
B- Nội dung
I- Khái niệm về giai cấp công nhân
1. Quan niệm của Mác giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử “. Để phân biệt rõ sự khác nhau giữa giai cấp công nhân và giai cấp vô sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai cấp vô sản” thì Mác và Ăngghen đã loại dần những người vô sản nói chung ra, để cuối cùng chỉ nói đến “những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp do công nghiệp sản sinh ra”. Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công nhân công nghiệp... Như vậy, không phải Mác nói vô sản chung chung, bất kỳ, mà chỉ là “vô sản trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo cách đặt vấn đề như trên thì giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh, các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về chất lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn”. Để tìm hiểu bản chất giai cấp công nhân là gì, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới tiêu chí một đó là công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
2 - Những biến đổi của giai cấp công nhân ngày nay so với thời kỳ của Mác.
Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ” vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?
Để làm rõ điều này, ta vẫn dựa vào 2 tiêu chí đã nêu ở trên:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Lấy hai tiêu chí trên để phân biệt và xác định rằng giai cấp công nhân ngày nay không hề bị biến mất mà trái lại ngày càng không ngừng phát triển về số lượng. Cụ thể theo tổ chức lao động quốc tế 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân, đến 1990 có hơn 600 triệu, đến 1998 tăng đến 800 triệu.Đối với giai cấp công nhân hiện nay mặc dù cơ cấu ngành nghề ở các nuớc tư bản dịch vụ chiếm 50-70% sản xuất đã được tự động hoá với một trình rất cao, nhưng trong lao động kể cả trực tiếp hay gián tiếp người lao động điều phải sử dụng công cụ lao động của cộng nghiệp hiện đại và họ điều là những nguời không có tư liệu sản xuất. Do đó xét về địa vị xã hội họ vẫn là người làm thuê. Nếu như trước kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì ngày nay họ còn bán luôn cả sức lao động trí óc và đôi khi bán chất xám lại là điều chủ yếu.
Trong xã hội ngày nay một số công nhân cũng có tư liệu sản xuất, họ cũng làm chủ, một số còn có cổ phần…. có phải cuộc sống của công nhân được trung lưu hóa? Vậy họ có còn là công nhân không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta xét ở hai xã hội:
Ở các nước tư bản, phần đông họ không còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, như phân tích của Mác đưa ra ngày trước mà một số họ có tư liệu sản xuất phụ mà họ có thể cùng gia đình làm thêm ở nhà để thực hiện một số công đoạn phụ cho nhà máy, xí nghiệp. Một số ít có cổ phần nhưng rất bé và bản thân họ cũng chỉ là những người lao động làm thuê, bị bóc lột tư bản một cách ngày càng tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi, như tập đoàn Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Và trên thực tế không phải người công nhân nào cũng có thể mua được cổ phần.
Đối các nước XHCN sau khi giành được chính quyền họ trở thành giai cấp lãnh đạo, Tư liệu sản xuất là của chung. Họ vẫn là giai cấp công nhân nhưng không còn là vô sản như trước nữa. Như vậy về địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa căn bản đã khác so với trước đây nhưng trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay thì còn có một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân và họ vẫn là người bị bóc lột.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18%.
Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như tiên đoán của C.Mác.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công nghiệp có thể lên tới 80% - 90%. Những thành tựu của cách mạng tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Tóm lại, có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
II – Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử.
1 – Nội dung sứ mệnh lịch sử
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp luôn có mâu thuẫn giữa Lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hóa cao với Quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu; mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao động: là người sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn tại giai cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức sản xuất đó còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, luôn tồn tại một giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp, điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và giải phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết:” Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại ”. Còn Lênin đã chỉ rõ:” Điểm chủ yếu trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây chính là:
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu dài, gian khổ, trải qua từng bước cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhưng phải dần dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của chế độ người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ tư hữu; sau khi xoá bỏ chế độ tư hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với yêu cầu sản xuất; đây cũng là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại chế độ xã hội mới vì thế cũng rất cần phải xoá bỏ chế độ tư hữu này. Chính C.Mác đã nói: ”những người cộng sản có thể tóm tắt lực lượng của mình bằng một công thức là xoá bỏ chế độ tư hữu”.
Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà nước(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước: nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong.
Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. Ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không xoá bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới.
Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự nghiệp giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người. Đây chính là nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế giới.Và để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên những người cộng sản phải kiên trì, không nóng vội, nó phải đợc tiến hành hai giai đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và tập trung lực lượng để xây dựng chế độ xã hội mới.
Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của mình tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền của cách mạng vô sản. Các bước đấu tranh đó gồm: thiết lập một chính đảng cộng sản, đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược, mục tiêu, phương hướng, biện pháp, giải pháp…;liên minh giai cấp công nhân, nông dân, xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng; tạo tình thế như điều kiện khách quan trên thế giới và trong nước…Khi cách mạng vô sản thắng lợi sẽ đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản; xoá bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (bản chất là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất); kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc và tri thức văn hoá thời đại.
Trong giai đoạn hai, khi đã giành được chính quyền – thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với mục đích là giữ vững chính quyền cách mạng (xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa):Về chính trị, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của dân. Nhà nước vô sản có hệ thống chính trị gồm Đảng cộng sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong công tác đối nội và đối ngoại sẽ sử dụng bạo lực trấn áp thù trong giặc ngoài. Về kinh tế, mục đích là đạt được năng suất lao động cao, nguyên tắc phân phối là làm theo năng lực, hưởng theo lao động; sử dụng các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản nhà nớc, sở hữu tư nhân. Do đó cần nắm vững cơ chế Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân lao động làm chủ dựa trên pháp luật của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (nguyên tắc tập trung dân chủ). Về văn hoá tư tưởng: kế thừa có chọn lọc tri thức văn hoá truyền thống dân tộc, kết hợp với tri thức văn hoá của nhân loại (khoa học kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế tri thức), và định hướng xã hội là định hướng tư tưởng cá nhân. Về quân sự, xây dựng chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh quốc gia. Về ngoại giao, phát triển quan hệ song phương, đặt vấn đề dân tộc và lợi ích là trên hết Vì vậy đường lối đặt ra phải phù hợp với quy luật khách quan, hợp lòng dân, chống thù trong giặc ngoài và mọi âm mưu diễn biến hoà bình của đế quốc.
Liên hệ với nước ta, nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được thể hiện thông qua việc thực hiện 2 giai đoạn cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và Cách mạng XHCN.
2 – Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.
a.Về địa vị kinh tế xã hội:
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục được nếu không xoá bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:
Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_su_menh_lich_su_cua_gccn_0034.doc