Những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ vừa qua

là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Những thành tựu

của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm thay đổi lực lượng sản xuất của xã

hội loài người, dẫn đến xu thế toàn cầu hóa kinh tế.

Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế vận động tất yếu trong thời đại ngày nay. Toàn cầu

hóa kinh tế có tác động nhiều mặt, vừa mang lại nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng mang lại

nhiều khó khăn, thách thức cho các nước, đặc biệt đối với nước ta, một nước nông nghiệp, dân số

chủ yếu là nông dân và sinh sống ở nông thôn.

pdf6 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Những cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Th.S Nguyễn Thị Phương Mai Trường Đại học Thủy lợi Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ vừa qua là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm thay đổi lực lượng sản xuất của xã hội loài người, dẫn đến xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế vận động tất yếu trong thời đại ngày nay. Toàn cầu hóa kinh tế có tác động nhiều mặt, vừa mang lại nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều khó khăn, thách thức cho các nước, đặc biệt đối với nước ta, một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu là nông dân và sinh sống ở nông thôn. Quan điểm của Đảng ta là “...chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới” [1]. Việc nước ta gia nhập WTO, đã khẳng định sự chủ động, tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế một cách ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế, gia nhập WTO, thể hiện nước ta sẵn sàng chấp nhận những thời cơ và thách thức mới. Như vậy, việc nắm vững những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa, của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta nói chung, đối với nông nghiệp - nông thôn - nông dân nói riêng là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những cơ hội của nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. + Cơ hội mở rộng thị trường Khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như WTO, ASEAN, nông nghiệp nước ta sẽ có cơ hội mở rộng thị trường nông sản xuất khẩu, bởi sẽ được tiếp cận thị trường nông sản của các nước thành viên của các tổ chức khu vực và thế giới. Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của nước ta như gạo, cà phê, cao su, điều... sẽ có điều kiện tốt hơn về thị trường đầu ra. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo ra những cơ hội thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp, tạo điều kiện để nông nghiệp có thể tiếp thu công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. + Cơ hội để nông thôn thoát khỏi đói nghèo Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa sẽ là những cơ hội rất to lớn để nông thôn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển. Nông thôn sẽ có cơ hội tiếp cận với những tiến bộ về khoa học - công nghệ; giao lưu với các nền văn hoá; tiếp cận với những nguồn tài trợ để phát triển kết cấu hạ tầng, xoá đói giảm nghèo. Nhờ vậy, kinh tế nông thôn sẽ có cơ hội phát triển. Các ngành nghề kinh tế ở nông thôn, các thành phần kinh tế ở nông thôn như kinh tế hộ và kinh tế trang trại, các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến nông sản, gia công, sản xuất đồ gia dụng, sẽ được chú trọng phát triển, nhất là các làng nghề được khôi phục và phát huy. Bộ mặt kinh tế - xã hội, văn hoá - xã hội của nông thôn đã có những đổi thay đáng kể, góp phần làm cho nông thôn được đô thị hoá, xích lại gần hơn với thành thị và thế giới. + Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam vốn là một nước nông nghiệp, với cơ cấu kinh tế thuần nông, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, nước ta đã tiến hành công nghiệp hóa, với mục tiêu phát triển nước ta thành một nước công nghiệp có cơ cấu kinh tế hiện đại. Trong quá trình đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có rất nhiều biến đổi, cơ cấu kinh tế ở nông thôn cũng dần được chuyển dịch theo hướng hiện đại, cả cơ cấu ngành nghề, cơ cấu thành phần, cơ cấu lao động. Cơ cấu kinh tế công - nông - dịch vụ từng bước được hình thành, trong đó nông nghiệp đóng vai trò nền tảng cho công nghiệp và dịch vụ phát triển, nông dân luôn là chủ thể năng động, sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn là địa bàn diễn ra những hoạt động kinh tế sôi nổi. Trong quá trình đổi mới, giá trị sản lượng nông nghiệp (cả nông, lâm, ngư nghiệp) liên tục tăng trưởng với tốc độ bình quân 5,55%/năm và tăng GDP 3,36%/năm. Người nông dân đã dần chú trọng đến phát triển thông tin thị trường, xúc tiến thương mại; nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung được hình thành như vùng lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, cà phê ở Tây Nguyên, chè ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, cao su ở Đông Nam Bộ... Vì thế, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu thứ nhất về hạt tiêu (chiếm 14,3% thị phần thế giới), về cà phê vối (chiếm 40% thị phần thế giới), thứ hai về lúa gạo (chiếm 12% thị phần thế giới), về hạt điều (chiếm 9,5% thị phần thế giới)... Với vị trí quan trọng như vậy, nông nghiệp đã trở thành chìa khoá đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. [4] Phát triển công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh sẽ tạo việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn, thuận lợi cho tích luỹ và đầu tư. Cơ sở công nghiệp là nơi đặt hàng, tiêu thụ hàng hóa cho nông nghiệp và giúp nông nghiệp sản xuất nguyên liệu với công nghệ, chất lượng, giá trị cao hơn; cung cấp vật tư, thiết bị cho nông nghiệp với giá cạnh tranh hơn. Các loại hình dịch vụ ở nông thôn như thương nghiệp, tín dụng, khoa học công nghệ và tư vấn cùng với cơ sở hạ tầng ở nông thôn như điện, đường, trường, trạm tạo điều kiện hơn cho sản xuất và kinh doanh nông nghiệp. Quá trình phát triển kinh tế nông thôn là quá trình phát triển của phân công lao động xã hội. Quá trình đó đã dẫn đến những biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội, lực lượng lao động đáng kể sẽ ra khỏi nông thôn để làm công nghiệp - dịch vụ. Vì vậy, nông thôn bây giờ không chỉ là nơi sinh sống của nông dân mà còn của các giai cấp khác nhau. + Xây dựng người nông dân mới thích nghi với cơ chế thị trường. Trong hơn 20 năm đổi mới, do tác động của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoá, những người nông dân tiểu nông sản xuất tự cấp, tự túc, bảo thủ, lạc hậu đã trở thành người nông dân năng động, sáng tạo trong sản xuất hàng hoá để hội nhập với thế giới. Người nông dân, nhất là những chủ trang trại và chủ doanh nghiệp trong nông nghiệp đã được tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới, họ càng năng động, sáng tạo hơn trong sản xuất và kinh doanh. Họ đã học tập được những kinh nghiệm của nông dân nước khác, cũng như ý thức sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ quốc tế, nhận biết được giá trị của thương hiệu, của xúc tiến thương mại, của luật pháp quốc tế... Những thách thức và khó khăn đối với nông nghiệp - nông dân - nông thôn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi nêu trên, nền nông nghiệp nước ta cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế. Những biến động của kinh tế và thị trường nông sản thế giới tất yếu ảnh hưởng tới sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam. Gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam dù còn nhiều yếu kém nhưng phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi chung của nền kinh tế thế giới mà trong đó Việt nam là một thành viên. + Khó khăn do sự bảo hộ của các nước phát triển. Hội nhập sẽ là thách thức lớn cho nông nghiệp nước ta, nhất là ở các vấn đề liên quan tới giá cả hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng lao động, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, khiếu kiện thương mại... Các sản phẩm truyền thống sẽ phải cạnh tranh mạnh hơn với hàng nhập khẩu khi hàng rào bảo hộ phải hạ xuống theo yêu cầu của WTO. Theo cam kết với WTO, thời gian tới, mức cắt giảm thuế nông sản bình quân là 10,6 % (nếu tính theo thuế ngoài hạn ngạch) và 20% so với mức MFN hiện hành. Trong số 1185 dòng thuế nông sản cam kết, có tới 500 mặt hàng -dòng thuế (chiếm 42%- chủ yếu là thịt, rau quả, nông sản chế biến) sẽ giảm thuế; 535 dòng thuế không thay đổi (chiếm 45%- chủ yếu là gia súc sống, cây con giống, nông sản thô), và chỉ có 150 dòng thuế (chiếm 13%) sẽ tăng. Cam kết mở cửa thị trường này sẽ tiếp tục gây áp lực cạnh tranh tới nhiều mặt hàng nông sản sản xuất trong nước. + Đối mặt với sự cạnh tranh. Việc mở rộng tự do hóa thương mại, sẽ làm cho nông sản hàng hoá của nước ta bị nông sản hàng hoá của nước ngoài cạnh tranh khốc liệt. Trên thực tế, phần lớn nông sản của nước ta chỉ được tiêu thụ ở thị trường dành cho khách hàng bình dân, trong khi đó các mặt hàng rau quả tại các siêu thị, nhà hàng chủ yếu là có xuất xứ từ nước ngoài; ngành chăn nuôi của nước ta cũng sẽ gặp phải cạnh tranh khốc liệt với nông sản thực phẩm vừa được trợ cấp cao, vừa có chất lượng cao và giá cả rẻ của Mỹ, EU, Úc... Điều này sẽ ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp trong nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp của nông dân thường có quy mô nhỏ, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh thấp. Hơn nữa, trình độ lực lượng sản xuất của nông nghiệp còn thấp, nhất là về công cụ sản xuất phần nhiều còn thô sơ, khả năng áp dụng khoa học - kỹ thuật của người nông dân vào sản xuất và kết cấu hạ tầng nông nghiệp còn hạn chế, nên nông nghiệp còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều này đựng nhiều rủi ro, bấp bênh về giá cả, thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, tình trạng phân tán, manh mún của ruộng đất còn phổ biến, gây khó khăn rất lớn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nói riêng từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn. + Chất lượng nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Những yêu cầu chung về nhân lực trong thời kỳ hội nhập là phải có tri thức, có năng lực tư duy sáng tạo, có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường và luật pháp quốc tế. Nhưng, hiện nay, do trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và khoa học - kỹ thuật còn rất thấp, do năng lực tư duy kinh tế, hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế, do thất nghiệp vì mất đất, thiếu kinh nghiệm làm ăn, do còn chịu ảnh hưởng nhiều của tập quán sản xuất nông nghiệp lạc hậu, những thói quen tuỳ tiện, đại khái của phần lớn nông dân, nên nông dân vẫn là đối tượng khó tiếp cận được với những cơ hội để hội nhập có hiệu quả, thậm chí họ còn trở thành đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất khi nước ta tham gia toàn cầu hoá. Người nông dân hiện nay, kể cả các chủ trang trại, các chủ doanh nghiệp nông dân còn rất ít hiểu biết về những quy định, quy tắc, các chế tài pháp lý trong môi trường cạnh tranh toàn cầu, còn thiếu thông tin về thị trường, về quyền sở hữu trí tuệ, về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, về thương hiệu, nhãn mác sản phẩm, thiếu thông tin kịp thời về sự bảo trợ nông nghiệp của các đối thủ cạnh tranh ở châu Âu, Nhật Bản và Mỹ... điều này cũng gây nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. + Khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn có xu hướng tăng lên Do kết cấu hạ tầng nông thôn còn rất yếu kém, nên rất khó mời gọi đầu tư của các đối tác để phát triển kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại, tiên tiến. Đa số những dự án FDI đầu tư cho nông nghiệp lại chỉ tập trung vào những vùng có khả năng sản xuất nguyên liệu với quy mô lớn, giao thông thuận lợi... điều này đã làm gia tăng sự chênh lệch về trình độ phát triển sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, do đó đã làm gia tăng sự chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập và sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng và nhóm dân cư. Ngoài ra, hiện còn có một bộ phận nông dân rất nghèo khó, đã làm gia tăng khoảng cách giầu nghèo giữa nông dân với các tầng lớp dân cư khác, giữa nông thôn với thành thị, giữa nước ta với thế giới. Khu vực nông thôn, tuy đã có những bước đổi thay đáng kể, nhưng nhìn chung vẫn còn rất nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển không chỉ về đời sống vật chất, mà còn cả về đời sống văn hoá, tinh thần. Đa số lao động nông thôn chưa được đào tạo nên ít có cơ hội được hưởng tương xứng từ những thành quả của quá trình này. Người nông dân là những người chịu thiệt thòi một cách trực tiếp trong quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, đô thị và công nghiệp sẽ tiếp tục thu hút và tranh chấp mạnh tài nguyên với nông nghiệp, nông thôn mà trọng tâm là đất, nước và sau đó là lao động và vốn. Trong vòng 10 năm từ 1998-2008, FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 10,7% tổng số dự án FDI của cả nước với 966 dự án. Quy mô của các dự án này chỉ bằng 1/10 mức trung bình của các dự án khác [5]. Nếu chính sách phát triển không được điều chỉnh hợp lý, khoảng cách về thu nhập và điều kiện sống giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa nông thôn và đô thị tiếp tục rộng ra sẽ dẫn đến tình trạng di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, gây ra sức ép lớn đối với thành thị về việc làm, nhà ở, môi trường, tệ nạn xã hội... Việt nam: chỉ số chênh lệch giàu nghèo (chỉ số) Gini): 34,4 lần 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia. 10% giàu nhất chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia. 20% dân số nghèo nhất chiếm 9% tổng thu nhập và chi tiêu quốc gia. 20% dân số giàu nhất chiếm 44,3% tổng thu nhập và chi tiêu quốc gia. Chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10% dân số nghèo nhất là 6,9 lần, ( Báo cáo phát triển con người 2007-2008 của UNDP * * * Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta có vị trí quan trọng lâu dài, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Phát triển toàn diện và bền vững nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề có vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam. Tuy nhiên, từ thực tế phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân có thể thấy, cái mà nông dân được hưởng, nông nghiệp được đầu tư chưa tương xứng với mức độ đóng góp của người nông dân, những thành tích mà nông nghiệp đã mang lại cho nền kinh tế. Qua kinh nghiệm của một số nước đã thực hiện vấn đề “tam nông” như Trung Quốc, Hàn quốc, có thể thấy sự chênh lệch về cuộc sống, về cơ hội phát triển của cư dân nông thôn và cư dân đô thị, cách biệt giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất ổn xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, "Mô hình hy sinh nông nghiệp, nông thôn trước, rồi bù đắp lại, hàng trăm năm sau đó” chắc chắn không còn thực hiện được nữa. Muốn công nghiệp hoá, trước hết phải giải quyết thành công các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Để thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân của Việt Nam đến năm 2020, đòi hỏi phải xây dựng được một chiến lược toàn diện về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông thôn và nông dân, cần quán triệt quan điểm“nông dân là chủ thể” của quá trình phát triển, “xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản”; “phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là khâu then chốt”. Nhận diện đúng những cơ hội và thách thức của nông nghiệp, nông thôn và nông dân chính là yếu tố quan trọng để nước ta có thể thực sự “tích cực”, chủ động” trong hội nhập quốc tế, giúp chúng ta có thể nắm bắt và phát huy các cơ hội cũng như có giải pháp để hạn chế được những tác động tiêu cực làm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, của nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói riêng, đảm bảo sự phát triển bền vững, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, Hà nội, 2006, tr.204 2. Đảng Cộng sản Việt nam, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X) 3. GS,TS. Hoàng Ngọc Hoà, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta , NXB. CTQG, 2008 4. Nông Văn Kế, Tạp chí Cộng sản , Số 12 (156), năm 2008 5.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44_nguyen_thi_phuong_mai_3527.pdf