3. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hướng tới một nền văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú về sắc thái chứ không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú hoàn toàn đối lập với sự nghèo nàn, đơn điệu. Đa dạng, phong phú về bản sắc là một thuộc tính của văn hóa thể hiện khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc trong quá trình phát triển. Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Fedrico Mayor đã từng cảnh báo: sự "đồng hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại"(1)
45 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Những câu hỏi thường gặp trong lịch sử Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế chủ yếu bằng phương pháp mệnh lện áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt dộng dự trên cơ sở các quyết định của nhà nước và chỉ tiêu pháp lệnh được giai. Tất cá phương thức sản xuất, nguồn nguyen liệu, vốn, vật tự, thiết bị…đều do cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, cơ quan quản lí nhà nước can thiệp quá sâu và hoạt động sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu một loại trách nhiệm vật chất ciũng như pháp lí trứoc quyết định của mình . Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuât kinh doanh, cũng không bị ràng buộc vào kết quả hoạt động sản xuát kinh doanh, do đó khôbng tạo được sự chủ động, năng động, sáng tạo trong sản xuát kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, quan hệ hàng hoá, tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức quan hệ hiện vật chủ yếu . Nhà nước quản lí thông qua “cấp phát, giao nộp”.
Thứ tư, bộ máy quản lí nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu, tham nhũng nhưng lại hưởng quyền lợi cao hơn người lao đông.
Tính tích cực của cơ chế thị trường.
Sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự ra đời của cơ chế kinh tế này về thực chất khá mới mẻ với chúng ta (mặc dù nó không hề mới trong tu duy quản lí của các nứoc phương Tây). Chúng ta đã quen thuộc với cơ chế kinh tế tâo trung quan liêu bao cấp vì vậy chuyển đổi sang loại hình này vẫn tỏ ra một số e ngại trong xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã chúng minh, loại hính kinh tế này đã tạo ra những bước ngoặt trong nền kinh tế, đưa đất nước ta ngày một đi lên, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân.
Xét về mặt lí luận và thực tiễn, chúng ta nhận thấy cơ chế thị trường có những mặt tích cực sau đây:
Một là, Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trước đó cơ chế quản lí quan liêu bao cấp cũng từng mang lại hiệu quả to lớn trong thời kì chíên tranh. Tuy nhiên chúng ta vẫn duy trì một thời gian dài sau hoà bình đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Giải thích cho vấn đề này là vì, với cơ chế đó đã vô hình trung kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng cơ chế thị trường đã tháo gỡ được nhưng vướng mắc ấy, được tự do phát triển, nhà nước không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế. Nhiều thành phần kinh tế ra đời và tự do phát triển.
Hai là, Tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể, các thành phần kinh tế, không ngững cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh lành mạnh xét về mặt khách quan là nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trong việc phát triển miễn là chấp hành đúng pháp luật. Không có một rào cản ngăn cấm hay bênh vực cho chủ thể nào trong xã hội, sự cạnh tranh này suy đến cùng cũng sẽ tạo ra sự đào thải lẫn nhau để tồn tại và là động lực cho sự phát triẻn kinh tế. ĐIều này cũng giải thích vì sao các chủ thể muốn tồn tại phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nó khác hẳn với cơ chế cũ theo phương pháp mệnh lệnh hành chính, với cơ chế thị trường các chủ thể được tự do kinh doanh.
Ba là, Các doanh nghiệp tự chủ, năng động sáng tạo trong phát triển kinh tế. Thật vậy, cũng vì sự cạnh tranh lẫn nhau mà các doanh nghiệp, các chủ dự án kinh tế phải không ngừng vận động sáng tạo, điều đáng nói là, sự sáng tạo này không bị áp lực lớn như trong cơ chế cũ. Vì trong thời kì bao cấp, sáng tạo nhièu khi là đi ngược lại chủ trương dường lối của Đảng, là chống đối đảng trong hoạt đông kinh doanh và tất nhiên sẽ bị trừng phạt. Song trong co chế thị trường, rào cản ấy được xoá bỏ và các doanh nghiệp an tâm kinh doanh và khong ngừng sáng tạo.
Bốn là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Thực tiễn đã chứng minh điều này qua hơn 20 năm chứng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Nhân dân đã không còn phải lệ thuộc quá lớn vào sự cấp phát của nhà nước, tự phát triển và làm kinh tế riêng. …
Năm là, cơ chế thị trường sẽ là cơ hội để nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu giữ mãi cơ chế bao cấp cũ, sẽ rất khó để chúng ta tham gia vào đời sống hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay. Hiện tại, nứoc ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang có cơ hội rất lớn để tham gia phát triển nền kinh tế đa phương mang lại những nguồn lợi để phát triển đất nước
Hạn chế của cơ chế thị trường?
Bản chất của một sự vật, hiện tượng luôn có tính hai mặt của nó. Theo tâm lí chung trong hoạt động quản lí và phát triển đời sống xã hội, nếu một sự vật, hiện tượng đem lại lợi ích lớn hơn nhiều so với hậu quả thì sẽ được ưu tiên lựa chọn. Tất nhiên đó là một quy luật khá phổ biến và cơ chế thị trường cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Xét ở một bình diện chung nhất, cơ chế thị trưòng vẫn tỏ ra có nhiều hạn chế. Trong đó đáng quan tâm những hạn chế như sau:
Thứ nhất, cơ chế thị trường tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. Điều này là một thực tế tồn tai khá phổ biến ở hầu hết các nước. Theo quan niệm của một số học giả tư sản, có vẻ như họ cho rằng phân biệt giàu nghèo chính là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, chúng ta phải phủ nhận điều đó, khi chúng ta đang trên con đường đi lên chủ nghỉa xã hội. Chúng ta biết rằng, hiện nay cơ chế thị trường đã không còn xa lạ nữa vì nó gắn liền với sự phát triển hằng ngày của mỗi người trong xã hội. Những doanh nghiệp làm ăn phát đạt sẽ trở nên giàu có và những người lao động vẫn cứ lao đông nghèo khó, khoảng cách giữa họ ngày một nâng lên về cả góc độ cá nhân lẫn vùng miền….
Thứ hai, cơ chế thị trường cũng có những hạn chế trong việc cạnh tranh không lành mạnh. Những doanh nghiệp quy mô nhỏ mói thành lập sẽ không thể cạnh tranh với một tập đoàn kinh tế lớn về quy mô và vốn. Vì vậy, sẽ dần sa sút và sẽ bị phá dản. Điều này có thể xuất phát từ những yếu tố khá nhau nhưng cũng cần nhấn mạnh tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau, khi có những thủ đoạn, những chieu thức nhằm lật đổ đối phương….Trước đây chúng ta vẫn quan niệm sai lầm rằng, phá sản danh nghiệp là tích cực. Nhưng hiện nay nó là tiêy cực vì để lại nhiều gánh năng như lao động, nguồn thu nhà nước từ thuế, sự độc quyền của những doanh nghiệp…vì vậy kinh tế khó phát triển hơn. Vì vậy, ở một góc độ nào đó chúng ta vẫn thữa nhận ơ chế thị trường tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh.
Ba là, tệ tham nhũng sẽ phát triển trong bộ máy quản lí nhà nước.
Bốn là, tệ nan xã hội ngày một gia tăng nhanh chóng về số lượng và để lại hậu quả nghiêm trọng. Hiện nay, cơ chế thị trường toạ ra sự hội nhập đa phưong vì thế sự du nhập của nhiều yếu tố văn hoá không phù hợp với thuần phong, mĩ tục của dân tộc trong đời sống xã hội. Những cái đó vô hình trung tạo sự tò mò trong moi tầng lớp xã hội, vì vậy mà đã có nhiều tệ nạn xã hội phức tạp khác hẳn với các thời kì trước đó.
Năm là, tạo nên môt hình ảnh không tốt về xã hội, tất cả sống vì tiền, đồng tiền nhiều khi là thước đo của các giá trì, chuẩn mực mà vốn dĩ nó không thể cân đo đong đếm bằng vật cất….
Những giải pháp để hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay ?
Để giải pháp vấn đề phân hoá giàu nghèo (PHGN) thì trước hết chúng ta phải giảm tỷ lệ đói nghèo, và giảm bất bình đẳng xã hội thì mới có khả năng thu hẹp sự chênh lệch giữa giàu và nghèo. Muốn vậy trước hết chúng ta phải rút những bài học từ một số nước trên thế giới.
Đảng và nhà nước ta đã áp dụng một số chính sách nhằm hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, nâng coa đời sống của người dân, xoá đói giảm nghèo. Nhưng nó chỉ mang tính cấp bách, tạm thời. Việc xây dựng đất nước theo con đường XHCN là một chặng đường rất khó khăn, gian khổ và cần rất nhiều thời gian vì vậy chúng ta phải có những chính sách mang tính chiến lược về lâu dài, đó chính là ổn định kinh tế chính trị xã hội.
1.1.Những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm hạn chế sự PHGN
*Giải pháp chính trị.
Theo cuốn "Kinh tế học phát triển" và qua nghiên cứu thực trạng xu hướng phát triển của PHGN ở nước ta trong quá trình chuyển đổi phát triển nền KTTT những năm gần đây cho thấy để điều tiết quá trình này theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, cần phải tiến hành đồng thời và biết kết hợp chặt chẽ giữa các giải pháp về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội... Trong đó giải pháp chính trị có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vấn đề PHGN.
Chính thực tiễn chính trị Việt Nam và trình độ phát triển xã hội Việt Nam trong điều kiện quá độ lên CNXH nói chung. Thực tiễn giải quyết sự PHGN từ đổi mới tới nay nói riêng đã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giải pháp chính trị và đòi hỏi phải nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất của chính trị cũng như vai trò của định hướg chính trị trong quá trình giải quyết sự PHGN trước mắt cũng như lâu dài ở nước ta.
Thực chất của giải pháp chính trị đó là tạo ra môi trường chính trị ổn định để phát triển và tăng trưởng kinh tế, đồng thời thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nền dân chủ XHCN, tức là tạo môi trường dân chủ, công bằng cho nhân dân lao động, trong đó có người nghèo, để họ..... nhóm đối tượng trở thành chủ thể có vị trí trong xã hội. Đồng thời phát huy tính tích cực của người lao động nói chung, người nghèo nói riêng vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu một cách chính đáng cho bản than và hoà vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Chính môi trường dân chủ, công bằng là đảm bảo chắc chắn nhất cho các quyền cơ bản của công dân: Dân sinh, dân trí, dân quyền... Trên cơ sở đó tạo nên sự đồng thuận xã hội làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Để thực hiện vai trò, giải pháp chính trị trong việc giải quyết sự PHGN cần hướng vào một số nhiệm vụ chính sau:
- Thứ nhất: Giữ vững ổn định chính trị để tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững, nhanh chóng của đất nước vượt qua "ngưỡng" nghèo.
- Thứ hai: Thực hiện công bằng và dân chủ, tạo động lực thúc đẩy quá trình giải quyết sự PHGN ở nước ta hiện nay.
Như vậy, để vững vàng, ổn định về chính trị chúng ta cần phải xây dựng hệ thống chính trị nhằm đảm bảo mục tiêu dân chủ, đảm bảo cho người dân có môi trường ổn định tự do phát triển nhưng bên cạnh đó muốn giải quyết được sự phân hoá giàu nghèo ta cũng cần phải có giải pháp về kinh tế - xã hội.
* Giải pháp kinh tế - xã hội.
Những giải pháp kinh tế - xã hội cần phải bảo đảm: Một mặt thúc đẩy tăng truởng kinh tế, tạo cơ sở vật chất thực hiện các chính sách hội nói chung, mặt khác giải quyết hài hoà lợi ích giữa các giai tầng, tầng lớp trong xã hội... sao cho xây dựng đất nước vững mạnh theo con đường lối XHCN đã chọn. Vậy những giải pháp đó là:
-Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân và là cơ sở quyết định nhất để giải quyết sự PHGN nói chung, xoá đói giảm nghèo nói riêng.
+ Phát triển và chuyển dịch có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
+ Lựa chọn công nghệ hợp lý đối với nông nghiệp – nông thôn.
+ Điều chỉnh các chính sách ruộng đất.
+ Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng mọi nguồn vốn.
+ Giải quyết "đầu ra" cho nông sản hang hoá để đẩy mạnh sản xuất hang hoá nói chung, sản xuất hang hoá nông phẩm nói riêng.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà Nước trước xu hướng PHGN ở nước ta hiện nay.
+ Tạo môi trường kinh tế - xã hội và khuôn khổ pháp lý ổn định, an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế.
+ Phát huy tích cực của KTTT bằng cách duy trì và phát triển quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực cuốn hút mọi người vào phát triển kinh tế xã hội.
+ Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
+ Tiến hành cải cách ruộng đất, tạo điều kiện cho người nghèo được vay lãi theo lãi suất ưu đãi, đánh thuế luỹ tiến vào người có thu nhập cao, nhằm hạn chế sự phân biệt giàu nghèo và thực hiện xoá đói giảm nghèo.
* Giải pháp văn hoá.
Thu hẹp khoảng cách đời sống văn hoá giữa thành thị và nông thôn. Do tình trạng đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn... làm cho một số người ở nông thôn chán nản, bế tắc muốn rời làng quê ra thành thị kiếm sống. Vì vậy cần phải phát triển đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn để thu hẹp khoảng cách văn hoá giữa nông thôn và thành thị.
Nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. ở nước ta, phát triển giáo dục nâng cao dân trí trước hết phải xoá mù, tái mù, thực hiện phổ cập giáo dục, đưa lại cho người nghèo quyền "sở hữu trí tuệ".
Bên cạnh đó cũng phải đầu tư một bộ phận có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo ưu thế vượt trội, tạo động lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tăng cường giáo dục văn hoá pháp luật và văn hoá dân chủ cho người dân để mọi người có ý thức hơn trong thời đại Việt Nam hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
1.2. Những giải pháp cấp bách nhằm hạn chế sự PHGN.
* Điều tiết tăng thu nhập cho tầng lớp nghèo:
Nhà nước dung tiền ngân sách để hỗ trợ cho người nghèo, những người gặp rủi ro, khuyết tật... thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, các quỹ trợ cấp quốc gia, trợ cấp, tín dụng, ưu đãi... Ngoài ra còn các cuộc vận động đóng góp vào quỹ xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ vùng thiên tai... Nhà nước còn tăng cường các dịch vụ công như dự án y tế công cộng, bệnh viện miễn phí cho người nghèo, chương trình nước sạch, chăm sóc người già cô đơn, trẻ em mồ côi. Hộ đói nghèo được miễn giảm các khoản đóng góp xã hội do địa phương qui định để xây dựng cơ sở sản xuất, dịch vụ... được miễn giảm các khoản thuế như thuế nông nghiệp, thuế doanh thu.
* Chính sách lao động việc làm
Vấn đề việc làm luôn là vấn đề bức xúc trong mọi thời đại. Hiện nay nước ta có khoảng hơn 8 triệu người cần phải giải quyết việc làm nhất là trong tình trạng giá thị trường ngày càng có nhiều biến động và tăng cao như hiện nay. Theo Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội các giải pháp để giải quyết việc làm trong thời gian tới:
Phát triển kinh tế.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Thực hiện các hoạt động hỗ trợ việc làm như:
Chương trình trợ giá vốn và công nghệ. Phát triển các trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, tổ chức điều tra, thu nhập thông tin về thị trường lao động.
Giải quyết lao động dôi dư.
* Chính sách đối với người có công với cách mạng.
+ Đối với dân tộc thiểu số.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau đòng bào dân tộc nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa đang gặp rất nhiều kho khăn . Nhà nước đã và đang tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp để phát triển kinh tế xã hội miền núi như các chương trình chiến lược phát triển kinh tế miền núi, các chương trình xoá đói giảm nghèo ..v.v.
- Điều tiết giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường nhằm bảo đảm ổn định sản xuất và mức sống của những người có thu nhập thấp .
+ Với chính sách cho vay ưu đãi: Chúng ta phải có chính sách trợ giúp tín dụng cho vay vốn với điều kiện ưu đãi từng nguồn tín dụng của Ngân Hàng phục vụ người nghèo, quĩ xoá đói giảm nghèo, các chương trình xoá đói giảm nghèo.
Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho HP và các đạo luật giữ vị trí tối thượng
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Công bằng và tiến bộ xã hội trong điều kiện ngày nay, được hiểu là mọi người đều được tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển; mọi người đều có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về thông tin, giáo dục, y tế, việc làm… Do vậy, cần có những chính sách đồng bộ trong việc hình thành cơ cấu kinh tế cũng như trong cơ chế quản lý; bảo đảm sự công bằng trong lĩnh vực kinh tế đến công bằng trong các lĩnh vực chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội; từ khâu sản xuất, kinh doanh cho đến khâu phân phối, không chỉ coi đây là vấn đề thuộc khâu phân phối. hiện nay việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội chúng ta còn gặp một số khó khăn sau:
Một là, Chênh lệch giàu nghèo quá lớn.
Chênh lệch giàu nghèo là biểu hiện rõ nhất của bất công xã hội, nếu khoảng cách chênh lệch này ngày càng giãn ra trong khi kinh tế đất nước vẫn có tốc độ tăng trưởng khá, song mức độ cải thiện thu nhập của lớp người nghèo không được bao nhiêu, thì đây là một vấn đề rất đáng được báo động. Ở Việt Nam, vấn đề còn quan trọng và gay gắt hơn nhiều chính là chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa nông thôn và thành thị. Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là 378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng. Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của thành thị là 594.500 đồng, còn của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là về thu nhập cũng như chi tiêu, thành thị đều gấp hơn hai lần so với nông thôn. Nhưng đó cũng chỉ là những con số đã được “bình quân hóa”, trong thực tế, khoảng cách giàu nghèo còn nặng nề và đau xót hơn rất nhiều. Nhiều vùng nông thôn miền núi còn thiếu lương thực, hoặc chỉ có bắp không có gạo, thiếu nước sinh hoạt, thiếu các dịch vụ công cộng tối thiểu.
Hai là, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm quá lớn đã gây rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng ở nước ta hiện nay.
Đáng quan tâm nhất là ở nông thôn, nạn thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những tháng nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển sang công nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một số tiền đền bù ít ỏi đã trở nên trắng tay, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị. Cái nghèo bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo vốn đã khá đông ở thành thị. Hàng chục vạn phụ nữ nông thôn phải đi kiếm sống ở xứ người mong có tiền gửi về nuôi sống gia đình.
Ba là, sự chênh lệch về tri thức quá lớn.
Nhưng người nghèo ở nước ta hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà còn nghèo về kiến thức và quá yếu thế trong việc bảo đảm các nhu cầu về y tế. Nhiều bài viết trên báo chí gần đây đã cho thấy nông dân đang là tầng lớp chịu nhiều bất công vì được hưởng ít nhất thành quả của công cuộc đổi mới.
Ngoài ra, đất nước trải dài theo đường vĩ tuyến, tính chất địa lí phức tạp, nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau vì vậy thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vẫn gặp không ít khó khăn. (Tự phân tích)
Vì sao phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay?
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc.
Nói tới cốt cách của con người là nói đến nét đặc sắc, đặc trưng về tính cách của một con người hoặc của một tầng lớp xã hội. Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Lĩnh vực thể hiện rõ nhất cốt cách dân tộc, tinh thần dân tộc là văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc qua bao thăng trầm của lịch sử. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là giữ gìn cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là "chất", là "bộ gien" của mỗi dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là bảo vệ, giữ gìn bộ gien quý đó. Một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn hóa có đủ "sức khỏe" để đề kháng, chống lại sự "ô nhiễm văn hóa" hay "xâm lăng văn hóa" một cách vô thức hay có chủ định. Đây là một điều kiện cơ bản để "tiếp biến" văn hóa trước sự tác động nhiều chiều, phức tạp của khách quan được thực hiện một cách chủ động, tích cực. Chỉ như vậy, nền văn hóa dân tộc mới không bị "hòa tan" hay "lai căng" một cách thô thiển, mất bản sắc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với những cái mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh sự tiếp biến kỳ diệu của nền văn hóa Việt Nam trong điều kiện bị nước ngoài xâm lược. Đó là sự tiếp biến giữ được cốt cách dân tộc, đồng thời phát triển được bản sắc dân tộc trước những thách thức của lịch sử. Đây là một truyền thống, một "cốt cách dân tộc" cần được phát huy trong điều kiện phát triển kinh tế của nước ta hiện nay.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Tự là tự mình, tôn là đề cao. Tự tôn là tự mình coi trọng mình. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải "đi sâu vào tâm lý quốc dân" để từ đó "văn hóa soi đường cho quốc dân đi".
Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh giúp dân tộc vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Hành động tự nguyện quyên góp tiền vàng cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay tự hào sử dụng những sản phẩm sản xuất trong nước để phát triển kinh tế đất nước chính là minh chứng khẳng định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc cho sự phát triển kinh tế bền vững của dân tộc.
Hội nhập quốc tế là một quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Nó tạo ra một môi trường thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, đồng thời cũng phân chia thế giới thành hai cực giàu nghèo một cách khốc liệt tạo nên sự phụ thuộc khó tránh khỏi của các quốc gia kém phát triển vào các nước phát triển. Đó là nguyên nhân của sự bất bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình đẳng này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa, đe dọa bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa của các dân tộc có trình độ phát triển thấp hơn. Ngoài ra, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình thành lối sống hưởng thụ, suy tôn vật chất, chú trọng vật dụng hiện đại mà coi nhẹ những giá trị tinh thần thuộc về dân tộc; đề cao cái cá nhân mà suy giảm tính cộng đồng, mờ nhạt về ý thức tự tôn dân tộc... tất cả những điều đó đều làm suy yếu đi sức mạnh của dân tộc. Củng cố ý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ygadfkuadgfagoadshfuiayewpogjABVI (1).doc