Bịnh này do sự xáo trộn của chất Norepinephrine và chất Seretonin ở
não bộ. Phụ nữ bị bịnh này gắp hai lần nam giới, hơn phân nửa bị bịnh này
vào lứa tuổi 20 tới 50, tuy nhiên tất cả mọi lứa tuổi đều có thể bị bịnh này,
và 1/4 trường hợp xảy ra khi bịnh nhân gặp biến cố trong cuộc sống (mất sở,
ly dị, người thân mất.). 3/4 trường hợp bịnh tự nhiên xảy ra, không có lý do
chính đáng. Bịnh có tính chất di truyền. Khoảng chừng 10% dân số bị bịnh
này. Ở những quốc gia có đời sống khó khăn, con số này có thể cao hơn
nhiều.
Triệu chứng của bịnh này là mất thú vui trong cuộc sống (ahedonia),
xáo trộn giấc ngủ (mất ngủ hay ngủ lu bù) và xáo trộn khẩu vị (biến ăn), mệt
mỏi trong người, chậm chạp trong suy nghĩ và hành động. Bịnh nhân còn có
những suy nghĩ tự ti (poor self esteem), mặc cảm tội lỗi và thậm chí có
những suy nghĩ muốn tự tử. Nam giới thì có triệu chứng bực tức nhiều hơn
là buồn nản. Từ đó dễ sanh ra lạm dụng rượu và bạo động gia đình. Rượu và
trầm cảm là 2 mối nguy lớn dẩn đến bạo động gia đình. Ở người Á châu,
triệu chứng bịnh buồn nản thường biểu hiện ở cảm giác đau toàn thân mặc
dù đi khám nhiều bác sĩ mà không tìm ra nguyên nhân bịnh ở cơ thể. Nhiều
bác sĩ hiểu lầm tưởng bịnh nhân giả bộ bịnh và gán cho bịnh nhân cái tên là
bịnh tưởng tượng gây ra sự hoang mang cho bịnh nhân.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Những bịnh tâm thần ảnh hưởng tình cảm (Mood Disorders), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những bịnh tâm thần ảnh hưởng tình cảm
(Mood Disorders)
Phần 1
Bịnh xáo trộn về tình cảm có thể chia làm 3 loại:
(1) buồn nản hay trầm cảm (major depression),
(2) chu kỳ vui-buồn quá độ hay tình cảm lưỡng cực (manic depressive
disorder) và
(3) lo âu (anxiety disorder).
Bịnh buồn nản (Major Depression)
Định Nghĩa:
Bịnh này do sự xáo trộn của chất Norepinephrine và chất Seretonin ở
não bộ. Phụ nữ bị bịnh này gắp hai lần nam giới, hơn phân nửa bị bịnh này
vào lứa tuổi 20 tới 50, tuy nhiên tất cả mọi lứa tuổi đều có thể bị bịnh này,
và 1/4 trường hợp xảy ra khi bịnh nhân gặp biến cố trong cuộc sống (mất sở,
ly dị, người thân mất...). 3/4 trường hợp bịnh tự nhiên xảy ra, không có lý do
chính đáng. Bịnh có tính chất di truyền. Khoảng chừng 10% dân số bị bịnh
này. Ở những quốc gia có đời sống khó khăn, con số này có thể cao hơn
nhiều.
Triệu chứng của bịnh này là mất thú vui trong cuộc sống (ahedonia),
xáo trộn giấc ngủ (mất ngủ hay ngủ lu bù) và xáo trộn khẩu vị (biến ăn), mệt
mỏi trong người, chậm chạp trong suy nghĩ và hành động. Bịnh nhân còn có
những suy nghĩ tự ti (poor self esteem), mặc cảm tội lỗi và thậm chí có
những suy nghĩ muốn tự tử. Nam giới thì có triệu chứng bực tức nhiều hơn
là buồn nản. Từ đó dễ sanh ra lạm dụng rượu và bạo động gia đình. Rượu và
trầm cảm là 2 mối nguy lớn dẩn đến bạo động gia đình. Ở người Á châu,
triệu chứng bịnh buồn nản thường biểu hiện ở cảm giác đau toàn thân mặc
dù đi khám nhiều bác sĩ mà không tìm ra nguyên nhân bịnh ở cơ thể. Nhiều
bác sĩ hiểu lầm tưởng bịnh nhân giả bộ bịnh và gán cho bịnh nhân cái tên là
bịnh tưởng tượng gây ra sự hoang mang cho bịnh nhân.
Thí dụ: Cô B, một phụ nữ Á châu, 28 tuổi, hơn 2 tuần nay cô cảm
thấy sa sút trong việc làm. Cô là một nhân viên kế toán giỏi của ngân hàng.
Cô đã li dị với chồng đã gần một tháng nay. Thời gian đầu, cô có thể chống
cự lại nỗi buồn và ở lại sở làm thêm giờ (overtime).
Hai tuần nay, cô ngủ không ngon giấc, sáng dậy cảm thấy mệt mỏi
trong người. Cô không tha thiết trong công việc làm đẹp người như trước
nữa (không trang điểm, quần áo không ủi...).
Trong sở, cô không thể tập trung tư tưởng vào những con số. Hồ sơ bị
ối động, chồng chất trên bàn. Cô trở nên cau có, gây sự bực dọc cho đồng
nghiệp. Về nhà, cô không còn sức dọn dẹp nhà cửa. Bạn bè gọi, cô không
muốn nhấc điện thoại lên và nhiều khi bỏ ăn cơm tối. Những tư tưởng tự tử
cứ lẩn quẩn trong đầu cô như bầy muỗi đói. Đôi lúc cô muốn kết liễu cuộc
đời vì cô mất hết niềm hy vọng (hopeless). Cô xin nghỉ việc và nguyên ngày
chui rúc trong phòng. Cô ngày càng ốm đi, với nhiều cơn nhức đầu, đau
ngực và nhức mỏi.
Gia đình lo âu nên dẫn cô đi khám bác sĩ.
Lần đầu tiên đi khám bác sĩ gia đình, cô B bị mặc cảm và ngần ngại
không nói cho bác sĩ biết hoàn cảnh gia đình và những triệu chứng buồn nản
của cô. Trong 15 phút gặp mặt và khai bịnh với bác sĩ gia đình, cô B chỉ khai
những cơn nhức đầu, đau ngực và nhức mỏi. Bác sĩ cho thuốc và cho cô B đi
thử nghiệm máu và tim. Mọi kết quả đều bình thường.
Cô B uống thuốc giảm đau mà không hết bịnh. Lần sau, bác sĩ hỏi kỹ
hơn và chẩn bịnh buồn nản và giới thiệu cô cho bác sĩ tâm thần (psychiatrist)
để điều trị.
Cách chữa trị:
Cách chữa trị hữu hiệu nhứt của bịnh buồn nản là dùng thuốc điều hòa
các chất hóa học kể trên của não bộ kèm với tâm lý trị liệu (psychotherapy).
Hiện nay có rất nhiều nhóm thuốc trị bịnh buồn nản. Nhóm Tricyclic
Antidepressant gọi tắt là TCA (thí dụ như Amitriptyline) là nhóm thuốc ra
đời khoảng thập niên 60-70.
Phản ứng phụ của nhóm này là có thể làm giảm áp huyết nên bịnh
nhân, nhứt là người lớn tuổi hay bị chóng mặt nếu dùng liều lượng cao,
ngoài ra còn làm khô miệng. Nhóm mới hơn là nhóm SSRI (Serotonin
Reuptake Inhibitor) chuyên về ổn định chất Serotonin (thí dụ như
Fluoxetine, Paroxetine, Sertraline, Citalopram). Gần đây hơn có loại thuốc
mới làm ổn định chất Serotonin lẫn Norepinephrine gọi là SNRI Serotonin
Norepinephrine Reuptake Inhibitor như là Venlafaxine hay Duloxetine.
Nhóm này có khả năng trị trầm cảm và đau nhức.
Nhóm thuốc SSRI có phản ứng phụ ảnh hưởng đường ruột (làm xót
ruột, nên uống thuốc sau bữa ăn) và sinh lý (giảm ham muốn, mất cường
dương).
Thông thường phản ứng phụ giảm dần sau một thời gian uống thuốc
liên tục.
Khi bịnh nhân khá hơn, giảm liều thuốc có thể làm giảm phản ứng
phụ.
Bịnh trầm cảm dễ đưa đến tâm trạng mất hết hy vọng và suy sụp tinh
thần. Bịnh nhân thường có những tư tưởng bi quan không muốn sống. Khi
mới cho thuốc bác sĩ nên thận trọng vì đôi khi phản ứng phụ làm bịnh nhân
khó chịu đưa đến ý muốn tự vận. Đôi lúc bịnh nhân mang sẵn ý định tự vận
nhưng khi bị trầm cảm nặng họ không có nghị lực thực hiện hành động đó
đến khi bịnh khá hơn họ đủ sức thực hiện hành động tự tử. Vì thế bịnh này
phải cần được theo dõi kỷ. Cũng ví lý do này, trị liệu tâm lý nên đi đôi với
điều trị bằng thuốc men.
Bịnh nhân phải uống thuốc bao lâu? Những nhóm thuốc trị về bịnh
buồn nản không có hiệu quả tức thời mà bắt đầu hiệu nghiệm sau 3-4 tuần.
Nhiều bịnh nhân hiểu lầm uống thuốc trong thời gian vài ngày thấy không
bớt nên bỏ thuốc. Nếu lần đầu tiên bị bịnh thì bịnh nhân phải uống thuốc
trong vòng 6 tháng để tránh bịnh tái phát (relapse). Nếu sau khi bỏ thuốc sau
6 tháng mà bịnh tái phát thì phải uống thuốc dài hạn. Sau khi bịnh được điều
trị thì bịnh nhân có thể uống thuốc liều thấp hơn để giữ cho bịnh đừng tái
phát và tránh phản ứng phụ.
Trong những tháng đầu mới bị bịnh thì tâm lý trị liệu rất cần thiết để
giúp bịnh nhân phục hồi tư tưởng lành mạnh. Ngoài ra tâm lý trị liệu còn
giúp bịnh nhân nói ra những bứt rứt dồn nén (repression) trong tâm tư. Khi
những sự dồn nén được phát biểu thì bịnh nhân cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Thí
dụ có nhiều bịnh nhân không khóc được và sau khi sự dồn nén được giải tỏa
thì họ có thể khóc nức nở và sau đó cảm thấy dễ chịu hơn. Có nhiều trường
hợp bịnh nhân dùng đủ loại thuốc mà không hết bịnh phải nhờ tâm lý trị liệu
mới giảm bịnh.
Tóm lại:
-Bịnh buồn nản do sự xáo trộn của các chất hóa học trong não bộ và
những triệu chứng của bịnh này ngoài ý muốn của bịnh nhân. Bịnh nhân
không phải lười biếng hoặc không chịu cố gắng.
-Ở những người Á châu, bịnh này hay kèm theo những triệu chứng
mệt mỏi đau nhức mà không có nguyên nhân căn cứ trên cơ thể. Đây không
phải là bịnh tưởng tượng vì bịnh nhân đau đớn thật sự.
-Thuốc trị bịnh buồn nản không có hiệu nghiệm nhất thời, cần phải
dùng liên tục trong 3-4 tuần mới bắt đầu thấy hiệu nghiệm. Uống không liên
tục sẽ bị phản ứng phụ nhiều hơn.
-Cách trị liệu hữu hiệu nhứt là phối hợp thuốc men với tâm lý trị liệu.
Đôi khi uống thuốc không trị không dứt bịnh.
-Thống kê cho biết thời gian đang bình phục có nhiều vụ tự tử xảy ra
vì bịnh nhân có sức để thực hiện quyết định nên gia đình cần thận trọng quan
sát. Nếu bịnh nhân có ý định tự tử thì nên gọi cho bác sĩ biết hoặc dẫn bịnh
nhân đến phòng cấp cứu để gặp bác sĩ.
Bịnh chu kỳ vui buồn quá độ (Manic Depressive disorder)
Định Nghĩa:
Bịnh này còn gọi là bịnh Tình cảm lưỡng cực (Bipolar disorder). Hiện
nay khoa học chưa biết rõ nguyên nhân của bịnh này. Bịnh này có thể do sự
xáo trộn của màn (membrane) của tế bào thần kinh làm nảo bộ dể bị kích
động. Màn của tế bào thần kinh đống vai trò rất quan trọng vì nó có chức
năng điều hòa sự ra vào của chất Sodium và Calcium. Sự ra vào của những
chất này tạo ra xung động thần kinh (nervous impulse) và giúp não bộ thực
hiện chức năng của nó. Khi màng thần kinh mất sự điều hòa thì có thể tạo ra
bịnh vui buồn quá độ hoặc bịnh kinh phong (seizure), tùy vào những vùng
của não bộ bị xáo trộn. Bịnh Manic depression có tính cách di truyền, nếu
cha hoặc mẹ bị bịnh thì xác suất ở người con là 25%.
Triệu chứng của bịnh này là có chu kỳ (cycle) vui-buồn-vui hoặc
buồn-vui-buồn. Trong lúc vui thoái quá (mania), bịnh nhân tin rằng mình là
người phi thường vượt chúng, có nhiều năng lực, có thể làm chuyện không
ai làm được, ngủ ít, suy nghĩ và nói nhiều, tăng hoạt động xã hội, xài tiền
như nước, hoạt động sinh lý hỗn tạp, không phân biệt (sexual promiscuity),
hay cau có và dễ bị phân tâm. Sau một thời gian có nhiều năng lực như vậy,
bỗng nhiên bịnh nhân rơi vào tâm trạng buồn nản mệt mỏi như kể ở phần
bịnh buồn nản. Chu kỳ vui-buồn đó nếu không trị sớm, bịnh nhân có thể bị
điên loạn (psychotic), thí dụ như tin rằng mình là Chúa giáng thế xuống cứu
rỗi trần gian.
Có những trường hợp bịnh nhân bị chứng bịnh này lần đầu tiên chỉ có
tâm trang buồn nản xuất hiện trước mà chưa có tâm trạng vui quá độ. Khi
uống thuốc trị trầm cảm thì trong người thấy rất khó chịu rồi sau đó mới
xuất hiện triệu chứng vui quá độ (mania). Cho nên khi bịnh nhân có cảm
giác bất thường nên thông báo cho bác sĩ biết.
Thí dụ: Anh X là một sinh viên đại học, 25 tuổi, đã 3 ngày nay anh ta
thức trắng đêm và tin rằng anh không cần ngủ. Anh ta cảm thấy sinh lực dồi
dào mặc dù chỉ ăn có một bữa. Anh ta nghĩ ra nhiều đồ án (project) mới
cùng một lúc và viết ra trên cả chục tờ giấy. Anh tin rằng mình có thể thay
đổi được sự nghèo đói trên thế giới và dự định sẽ hợp mặt với tổng thống
Bush trong ngày gần đây để giới thiệu đồ án của anh. Anh từng là người
nhút nhát không dám nhìn thẳng mặt phụ nữ, bây giờ thì người đẹp nào anh
cũng xáp lại nói chuyện và mời đi ăn. Anh xài hết tiền trong nhà băng trong
vòng 2 ngày để mua sắm những vật không cần thiết và bao những cô gái ngủ
với anh. Một tuần lễ sau, anh bỏ học vì tin rằng những giáo sư đại học không
đủ trí khôn để dạy anh. Anh càng ngày càng nói nhiều và nói nhanh đến nỗi
không ai hiểu được anh. Gia đình thấy không ổn nên dẫn anh tới bịnh viện.
Hiện tượng như trên, danh từ chuyên môn gọi là mania. Nếu không trị
sớm mania sẽ dẫn đến buồn nản (depression) hoặc điên loạn (psychosis).
Điên loạn gồm có ảo tưởng (tin mình là thánh nhân, tin mình có nhiều
thần lực), ảo thính (nghe tiếng nói trong đầu) và ảo thị (nhìn thấy những vật
không có thật).
Cách chữa trị:
Bịnh này chỉ có cách trị duy nhứt là dùng thuốc. Nếu bịnh nhân bị
bịnh nặng không tin rằng mình có bịnh và từ chối uống thuốc thì cần phải bị
bắt buộc nhập viện để điều trị.
Hiện nay có ba nhóm thuốc trị bịnh này: (1) Lithium,
(2) nhóm thuốc trị kinh phong (Divalproex Sodium, Carbamazepine,
Lamotrigine...) và
(3) nhóm thuốc mới trị điên loạn (Olanzapine, Risperidone,
Quetiapine, Aripripaxole..).
Bịnh nhân uống Lithium thường phải thử máu vì khi nồng độ Lithium
trong máu quá cao sẽ gây ra nhiều phản ứng phụ (ói mửa, đi đứng không
vững), khi nồng độ quá thấp thì không trị dứt bịnh. Lithium và nhóm thuốc
trị kinh phong thường làm tay chân bị run. Nhóm thuốc mới trị điên loạn
atypical antipsychotics có khuynh hướng gây ra cao mỡ và cao đường trong
máu
Một số bịnh nhân sau khi cơn vui thoái quá được ổn định cần phải qua
một thời gian ngắn tâm lý trị liệu để giải quyết những vấn đề ưu phiền xảy ra
trong lúc bị bịnh (thí dụ như xung đột gia đình) để giúp bịnh nhân gia nhập
lại với gia đình và xã hội.
Ngoài ra tâm lý trị liệu giúp bịnh nhân nhìn nhận những triệu chứng
phát khởi của mania để ngăn chận kịp thời. Bịnh nhân có ý tưởng tự tử (thí
dụ vì xấu hổ) cần phải qua tâm lý trị liệu để giải quyết những ưu sầu trong
tâm hồn.
Tóm lại:
-Bịnh chu kỳ vui buồn quá độ (manic depressive disorder) là do sự
mất điều hòa của não bộ và những hành động và suy nghĩ xảy ra ngoài ý
muốn và sư kiềm chế của bịnh nhân.
-Bịnh này cần phải uống thuốc dài hạn, nếu không, thời gian tình cảm
ổn định bình thường sẽ bị rút ngắn lại và chu kỳ vui-buồn sẽ xảy ra nhanh
hơn và nặng hơn.
Khi bịnh nặng, bịnh nhân có thể bị điên loạn.
-Nếu bịnh nhân có ý định tự tử sau cơn mania, cần nên nhập viện và
phải được điều trị bằng tâm lý trị liệu song song với thuốc men.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 82_338.pdf
- 81_1695.pdf